Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 10
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Tập 19
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ mười tám, xem từ ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.
“Hựu Viên Giác kinh vân: Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động. Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt, thí như ma kính, cấu tận, minh hiện” (Lại như kinh Viên Giác chép: “Các huyễn tận diệt, giác tâm bất động. Sự diệt mất hư huyễn ấy đă bị diệt, chứ cái chẳng huyễn không bị diệt, giống như mài gương, chất dơ hết, ánh sáng sẽ hiện”). Chúng ta xem đoạn thứ nhất, đoạn này vẫn tiếp tục nghiên cứu thể tánh của kinh này, đây là giảng rơ đức Phật nói bộ kinh này đă căn cứ vào điều ǵ để nói, điều ấy được gọi là “thể tánh”. Nếu chẳng có căn cứ, kinh sẽ chẳng thể thành lập. Căn cứ ǵ vậy? Trong lần trước, chúng ta đă học tập, hết thảy các kinh Đại Thừa đều căn cứ trên Thật Tướng để nói. Thật Tướng, nói thông tục là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Những điều được nói [trong kinh Phật] đều là chân tướng. Nếu chẳng phải là chân tướng, sẽ thành vọng ngữ. Chân tướng này rất khó hiểu, chân tướng là “Thật Tướng vô tướng, Thật Tướng vô bất tướng” (Thật Tướng vô tướng, Thật Tướng chẳng phải là không có tướng), các kinh Đại Thừa đều giảng rơ sự thật này. Ở đây, Hoàng lăo cư sĩ lại dẫn kinh văn của kinh Viên Giác để nói; do vậy, chúng ta đọc bản chú giải này, giống như đọc rất nhiều kinh luận và những
lời giảng giải của tổ sư đại đức. Đoạn kinh Viên Giác này hết sức trọng yếu! “Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động”, huyễn là ǵ? Trong giáo pháp Đại Thừa có nói “tam tế, lục thô”; tất cả hết thảy các huyễn pháp có cội nguồn là tam tế, lục thô. Rất khó có là hiện thời khoa học đă phát hiện tam tế tướng, họ bảo chúng ta: Trong vũ trụ, chỉ có ba thứ; trừ ba thứ này ra, thứ ǵ cũng chẳng có, ba thứ ấy là ǵ? Là vật chất, năng lượng, và thông tin. Những danh từ hiện đại này khác danh từ trong kinh Phật, nhưng có cùng một ư nghĩa. Trong kinh Phật nói tới Nghiệp Tướng. Nghiệp Tướng của A Lại Da là năng lượng, Cảnh Giới Tướng của A Lại Da là vật chất, Chuyển Tướng của A Lại Da, hoặc gọi là Kiến Tướng, chính là thông tin. Quư vị thấy: Nói về những thứ giống nhau; nhưng các nhà khoa học chẳng thể giảng rơ rệt như đức Phật: Những thứ ấy do đâu mà có? Các khoa học gia chẳng nói rơ ràng.
Trong Phật pháp, ba tế tướng này do đâu mà có? Do từ tự tánh mà có! Chỉ có tự tánh là thật , c̣n những tướng ấy đều chẳng thật. V́ vậy, A Lại Da là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm; nhưng chúng sanh trong mười pháp giới rộng răi và nhiều hơn chúng sanh trong lục đạo. Phía trên lục đạo, vượt lên khỏi lục đạo, lục đạo là giới hạn, thường là chẳng dễ ǵ vượt thoát lục đạo luân hồi, vượt thoát lục đạo luân hồi là A La Hán, [những người có thể vượt thoát] được gọi là A La Hán. Trên A La Hán là Bích Chi Phật, trên Bích Chi Phật là Bồ Tát, trên Bồ Tát là Phật, chúng ta gọi họ là “tứ thánh pháp giới”. [Những vị thuộc] bốn pháp giới này là thánh nhân, họ vẫn dùng A Lại Da, [tức là] vẫn dùng vọng tâm; v́ vậy, chưa phải là Phật [trong Viên Giáo]. Thiên Thai đại sư gọi Phật trong mười pháp giới là Tương Tự Tức Phật, chưa phải là Phật thật sự, v́ c̣n dùng vọng tâm, nhưng dùng [vọng tâm] rất chánh đáng, dùng rất thuần, thoạt nh́n dường như là chân Phật, trên thực tế chưa phải. Phân biệt chân và vọng như thế nào? Ở chỗ dùng cái tâm khác nhau, Phật dùng chân tâm. Quư vị phải ghi nhớ điều này: Dùng chân tâm! Chân tâm chẳng phải là ba thứ ấy (Chuyển Tướng, Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng), phải biết: Chân tâm là tự tánh của Dụng. Tổ tiên bảo: Tánh con người vốn lành. Tam Tự Kinh dạy: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”; cái tánh “bổn thiện” chính là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm. “Thiện” ấy chẳng phải là thiện trong “thiện, ác”. Nếu là thiện trong “thiện, ác” th́ sẽ là vọng tâm, phải biết điều này! “Thiện” ở đây là h́nh dung từ, là từ ngữ ca ngợi, [nhằm h́nh dung] không thể diễn tả được, quá tốt đẹp, quá hoàn bị, chẳng có thiếu khuyết ǵ. “Bổn thiện” có thể sanh ra vạn pháp, nó mới là căn nguyên của vũ trụ và nhân sinh.
Huệ Năng đại sư khai ngộ, khai ngộ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh là thấy ǵ? Là thấy bổn thiện. Thấy bổn thiện th́ phải diệt hết ba thứ Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng, ba thứ ấy chẳng c̣n, chúng là vọng tâm, [vọng tâm đă chẳng c̣n th́] chân tâm mới hiện tiền. Chân tâm hiện tiền, trong chân tâm chẳng có hiện tượng vật chất, mà cũng chẳng có hiện tượng tinh thần, trong Tịnh Tông gọi là “tứ độ” (bốn cơi Tịnh Độ), tầng tối cao là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, một bầu quang minh, trọn khắp hết thảy mọi nơi. Ở nơi đâu? Không chỗ nào chẳng tồn tại! Không lúc nào chẳng hiện hữu. Chúng ta cũng chẳng rời khỏi Thường Tịch Quang, mà cũng chẳng rời khỏi tự tánh, nhưng chúng ta chẳng thấy. Chẳng rời khỏi nó, nhưng chẳng thấy! V́ sao chẳng thấy? Năng lực của lục căn là hư vọng, vọng chẳng thể duyên chân, vọng chỉ có thể duyên vọng, chẳng duyên được chân. Vọng tâm của chúng ta rất lợi hại, nó có thể duyên tới A Lại Da, tức là Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, và Cảnh Giới Tướng nó đều có thể duyên được, đều có thể đạt tới, nhưng chẳng thể đạt tới tự tánh. Đạt tới tự tánh th́ phải buông những thứ ấy xuống, ba thứ ấy đều buông xuống, tự tánh sẽ hiện tiền, quư vị mới ḥng thấy được!
Buông xuống chẳng dễ dàng, nói rất dễ, nhưng sự thật rất khó. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật nói “khởi tâm động niệm” th́ khởi tâm động niệm là Nghiệp Tướng, phân biệt là Chuyển Tướng, chấp trước là Cảnh Giới Tướng. Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chúng ta đều chẳng chấp trước, quư vị sẽ chứng quả A La Hán. Trước hết, quư vị khôi phục điều ǵ? Khôi phục tâm thanh tịnh, tâm địa chẳng nhiễm mảy trần; cũng có nghĩa là chân tâm thấu lộ một phần. Thấu lộ một phần, lục đạo luân hồi chẳng c̣n nữa! V́ vậy, chư vị phải hiểu: Lục đạo chẳng thật! Kinh Đại Thừa thường nói “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, v́ chúng là pháp sanh diệt. Quư vị thấy hết thảy động vật có sanh, lăo, bệnh, tử; c̣n những thứ chân thật th́ sao? Đúng là chẳng sanh, chẳng diệt. Do vậy, tôn giáo của phương Tây nói tới “chân thần” (Chúa thật) hơi giống, nhưng chưa đúng, vẫn c̣n cách biệt với chân tướng. Nhưng hiện thời tôn giáo của phương Tây nói tới chân thần khác với xưa kia, họ nói thần chẳng có thân xác, không nơi đâu chẳng hiện hữu, họ cũng học theo cách nói này. Cách nói này hơi giống với ư nghĩa được giảng trong Phật pháp, nhưng trong ấy c̣n có mê, ngộ khác biệt. Giác mới là tự tánh, lúc mê sẽ gọi là “thần thức”, danh từ nhà Phật gọi [chân tâm bị mê] là “thần thức”. Người thế gian chúng ta, người phương Đông gọi [thần thức] là “linh hồn”, người phương Tây cũng gọi nó là “linh hồn”. Linh hồn là Chuyển Tướng, Chuyển Tướng là ở trong trạng thái mê bèn gọi là Chuyển Tướng; giác ngộ th́ ba tướng ấy (Chuyển Tướng, Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng) đều chẳng có. Do vậy, đúng là “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Đây là nói về khởi nguyên của vũ trụ.
Chuyển Tướng là thông tin, do vậy, chuyển cảnh giới bằng cách nào? Cảnh giới tiếp nhận thông tin. Nếu chúng ta hiểu đạo lư này th́ hiện thời địa cầu có tai nạn, chúng ta có thể hóa giải tai nạn hay không? Có thể! Chỉ cần quư vị biết chuyển ra sao, quư vị nắm vững [cách chuyển ấy], sẽ có thể chuyển cảnh giới. Chuyển cảnh giới th́ nhỏ là chuyển tự thân, đối với thân tướng của chính ḿnh, đầu tiên là khỏe mạnh. Làm thế nào để nó chẳng sanh bệnh, khỏe mạnh, trường thọ? Làm thế nào để thân thể chúng ta chẳng lăo hóa, hễ quư vị hiểu đạo lư sẽ liền làm được! Nói theo hiện thời, tâm thái của quư vị thanh tịnh chính là tướng trường thọ, dung mạo rạng rỡ, màu da nhất định hết sức tươi tắn, chẳng dễ ǵ lăo hóa. V́ sao? Tâm quư vị thanh tịnh. Nếu đạt tới b́nh đẳng, tức là đạt lên một bậc cao hơn, tâm b́nh đẳng th́ có thể nói là quư vị sanh tử tự tại. Nếu tâm b́nh đẳng thật sự hiện tiền, chúng ta sống trên thế giới này hai ba trăm năm chẳng có vấn đề ǵ. Đối với y học Trung Quốc, tức Trung Y, thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam hết sức giỏi Trung Y, cụ bảo tôi: Cả đời cụ kê toa chữa bệnh cho người khác, chắc chắn chẳng lầm một ai, cụ dám nói như vậy. Cụ cũng từng làm quan ṭa. Cụ nói: “Ta làm quan ṭa xử án, có khiến ai bị oan uổng hay không, ta chẳng dám nói, không dám chắc, rất có thể là có chỗ xử oan người ta, nhưng khám bệnh cho kẻ khác, chưa hề kê toa sai”. Cụ có gan nói ra lời ấy. Cụ bảo chúng tôi: “Trung Y chẳng nhằm chữa bệnh. Điều thứ nhất trong Trung Y là dạy con người trường sinh”. Cụ nói: “Đối với thọ mạng của con người, thân thể con người là một cỗ máy. Nếu có thể bảo dưỡng cỗ máy ấy rất khá, tối thiểu là [có thể duy tŕ] hai trăm năm, hai trăm tuổi là thọ mạng b́nh thường. Quư vị sống không đến hai trăm tuổi là do không biết bảo dưỡng, chính ḿnh làm hỏng bản thân”. Lời ấy rất có lư, mục tiêu thứ nhất của Trung Y là trường sinh. Mục tiêu thứ hai là pḥng ngừa bệnh tật, quư vị thật sự hiểu đạo lư này, có thể ngăn ngừa cả đời chẳng bị bệnh. Mục tiêu thứ ba mới là chữa bệnh, chữa bệnh là mục tiêu thứ ba của Trung Y.
Khi chữa bệnh c̣n thần kỳ hơn nữa. Thầy nói: Chữa bệnh th́ thầy lang bậc nhất chỉ nh́n, không cần phải hỏi, nh́n sắc tướng và dung mạo, nghe âm thanh của quư vị nói, chẳng hỏi han, liền hoàn toàn liễu giải t́nh trạng thân thể của quư vị. Người ấy c̣n có thể phán đoán: Hiện thời thân thể quư vị rất tốt, chẳng có bệnh tật ǵ, nhưng người ấy biết mười năm sau, hoặc hai mươi năm sau, quư vị sẽ bị bệnh ǵ, bị trục trặc chỗ nào! Cụ nói: Thần kỳ! Điều này có đạo lư, chẳng phải là không có đạo lư. Thí dụ như người thợ sửa chữa xe hơi, kinh nghiệm rất phong phú, nghe tiếng máy xe chạy, liền biết t́nh trạng cái xe. Quư vị c̣n chạy được bao nhiêu cây số nữa th́ chỗ nào đó [trong xe] sẽ bị trục trặc, người ta là dân nhà nghề mà! Người ngoài nghề như chúng ta nghe không ra, nhưng người ấy có thể nghe biết. V́ vậy, Trung Y nói “vọng, văn” (quan sát, nghe tiếng), thứ ba là bắt mạch, tức “vọng, văn, vấn, thiết” (quan sát, nghe tiếng nói, hỏi t́nh trạng bệnh tật, bắt mạch). Quư vị thấy hạng nhất, vừa nh́n là biết, đây là thầy chữa bệnh bậc nhất. Hạng hai phải hỏi, hỏi han quư vị. Hạng ba mới phải bắt mạch. Chúng tôi học những điều thường thức này từ thầy Lư, biết thầy thuốc phải bắt mạch là loại thầy thuốc hạng ba. Quư vị thấy trong Trung Y, điều thứ ba mới là chữa bệnh. Chữa bệnh mà nh́n, hỏi xong vẫn phải bắt mạch, sẽ là thầy thuốc hạng ba, kể ra cũng khá lắm, nhưng hiện thời thầy lang giỏi trong loại ba này cũng chẳng dễ ǵ kiếm được!
Chúng ta phải biết: “Tâm thái là chủ tể của hết thảy”. Quư vị thấy vài hôm trước, cư sĩ Lưu Tố Vân biểu diễn ở đây, chính bà ta bị bệnh Hồng Ban Lang Sang, mắc bệnh ấy gần như chẳng có cách nào chữa lành, nhưng bà ta hoàn toàn khôi phục, ngay cả vết sẹo cũng chẳng c̣n! Quư vị thấy bà ta giảng kinh, ở đây là mỗi ngày giảng hai giờ; tôi nghe nói ở Thâm Quyến, mỗi ngày bà ta giảng tám giờ, chẳng dễ dàng! Bà ta năm nay sáu mươi sáu tuổi, lúc năm mươi chín tuổi mắc bệnh ấy. Quư vị thấy đó! Tâm thái trị liệu, chẳng dùng thuốc. Đấy là căn cứ lư luận trong Phật pháp, hễ tâm thái chuyển biến, các tế bào mắc bệnh trong nội tâm đều có thể khôi phục b́nh thường. Nếu tâm thái chẳng tốt đẹp, quư vị thấy thầy lang Bành Hâm đă phân tích. Ông ta nói Ngũ Thường “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, làm được năm chữ ấy, quư vị sẽ chẳng mắc bệnh. Bất nhân sẽ bị bệnh gan, bất nghĩa sẽ bị bệnh phổi, vô lễ sẽ bị bệnh tim, đều là [bệnh tật] tương ứng [tâm thái]. Đây là y học Trung Quốc. Y học Trung Quốc đă có lịch sử hơn năm ngàn năm, làm sao quư vị có thể chẳng thừa nhận? Thầy tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ có lần bảo tôi: “Trung Y có năm ngàn năm lịch sử, Tây Y mới ba trăm năm. Trong Đệ Nhị Thế Chiến đă may mắn phát minh chất kháng sinh (antibiotics). Nếu chẳng phát minh chất kháng sinh, sẽ chẳng có Tây Y”. Thầy hỏi tôi: “Anh tin vào ba trăm năm, hay tin năm ngàn năm?” Năm ngàn năm chịu đựng sự khảo nghiệm của thời gian và con người, nó đă định h́nh. Quư vị chẳng thể không bội phục trí huệ của tổ tiên, họ chứng đắc Thật Tướng của các pháp như trong kinh điển đă nói. Những thứ được giảng trong kinh giống như vậy, đức Phật nói ai có thể thấy và chứng thực? Từ Bát Địa trở lên. Bồ Tát có các tầng cấp: Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa là Đẳng Giác, Thập Nhị Địa là Phật, năm tầng cấp này đều hiểu rơ ràng, rành rẽ. Từ Thất Địa trở xuống đều chưa chứng đắc. Chưa chứng đắc th́ chỉ nên nghe lời thầy, nỗ lực nâng cao linh tánh của chính ḿnh, nâng lên tới Bát Địa, quư vị sẽ chứng đắc.
Các huyễn diệt sạch như vừa mới nói là tam tế tướng và lục thô tướng. Từ tam tế biến thành lục thô; tam tế tướng quá vi tế, chẳng dễ ǵ nhận biết. Do vậy, khoa học hiện thời có thể nói tới năng lượng, vật chất và thông tin, chúng ta không thể chẳng bội phục họ, hết sức hiếm có! Khoa học vẫn cần tiến cao hơn, chúng ta cũng mong các khoa học gia có thể minh tâm kiến tánh, nhưng minh tâm kiến tánh th́ phải buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống. Nếu vẫn dùng những tâm ấy, tức là dùng vọng tâm, vọng tâm chỉ có thể đạt tới A Lại Da là cùng, họ chẳng có cách nào đột phá. V́ vậy, “chư huyễn tận diệt”, công phu học Phật là dùng ở chỗ này! Trước hết, công phu ấy có thứ tự và cũng có khó, dễ, đầu tiên là từ chấp trước, quyết định chớ nên chấp trước. Hễ có chấp trước, sẽ chẳng thể đột phá cửa ải đầu tiên là lục đạo. Lục đạo cũng chẳng thật, chỉ cần buông chấp trước xuống, chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Chẳng chấp trước th́ chúng ta thường nói: Phải thực hiện từ nơi đâu? Thực hiện bằng cách buông đối lập xuống, tôi thường khuyên lơn đồng học chuyện này, chúng ta thực hiện từ chỗ này: Quyết định chẳng đối lập với người khác. Hắn đối lập với ta, ta chẳng đối lập với hắn. Nếu ta đối lập với hắn th́ quư vị sẽ khó đi được một tấc nào trong Phật pháp. Chẳng đối lập hết thảy sự, chẳng đối lập hết thảy vạn vật, tâm lượng quư vị sẽ mở rộng, có thể bao dung, đó là bước đầu! Đầu tiên phải buông xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chớ nên có ư niệm khống chế hay chiếm hữu. Nếu quư vị có ư niệm khống chế hay chiếm hữu, đó là căn bản của tất cả hết thảy phiền năo. Phải dốc sức nơi đây th́ mới có thể đạt được cái tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh mới hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền sẽ vô cùng sung sướng, đó là pháp hỷ sung măn. Quư vị thấy câu đầu tiên trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi thường tu tập, cũng chẳng sướng sao), quư vị hoàn toàn thực hiện những điều đă học trong cuộc sống, trong
công việc, trong xử sự đăi người tiếp vật, trong tâm hỷ duyệt, sự hỷ duyệt ấy chẳng do ngũ dục lục trần bên ngoài kích thích, mà là sự hỷ duyệt từ trong nội tâm lưu xuất ra ngoài. Phật pháp cũng giống như thế, quư vị có thể thật sự buông tập khí phiền năo xuống, tâm sẽ tự tại lắm, thanh tịnh lắm!
V́ vậy, trước hết là tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đă đạt được, lục đạo chẳng c̣n nữa, vượt thoát lục đạo, thành A La Hán quả. Tiến thêm một bước nữa, buông phân biệt xuống; không chỉ chẳng chấp trước, ngay cả phân biệt cũng chẳng có, [cảnh giới] sẽ nâng cao lên thành Bồ Tát. Cuối cùng, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm th́ gọi là “thành Phật”. V́ vậy, Phật, Bồ Tát, A La Hán là danh xưng của ba tầng lớp tu hành trong nhà Phật, giống như danh xưng ba học vị trong nhà trường hiện thời: Cao nhất trong học đường hiện thời là Tiến Sĩ, kế đó là Thạc Sĩ (Cao Học, Master), rồi Học Sĩ (Cử Nhân, Bachelor). A La Hán là Học Sĩ, Bồ Tát là Thạc Sĩ, Phật là Tiến Sĩ, đấy là danh xưng học vị, chẳng thể lẫn lộn được! Ngày nay, Phật giáo biến thành tôn giáo chính là tội lỗi của chúng ta, do tội lỗi của đệ tử Phật, lẽ nào Phật giáo bị lẫn lộn với tôn giáo! Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, quư vị hăy xem kỹ, Ngài chẳng dính dáng ǵ với tôn giáo, nhưng nay Phật giáo thật sự biến thành tôn giáo, quư vị lại chẳng thể không thừa nhận nó là tôn giáo. Chúng ta đă có lỗi với thầy! Thích Ca Mâu Ni Phật mang thân phận, chức nghiệp của một vị thầy, giống như Khổng Tử, Khổng Tử giáo học chỉ được năm năm, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học suốt đời,
bốn mươi chín năm, ba mươi tuổi đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, bắt đầu dạy học, nhập diệt năm bảy mươi chín tuổi, giảng kinh, giáo học suốt bốn mươi chín năm. Ngài dạy chúng ta: Tất cả vấn đề thế gian và xuất thế gian, dùng phương pháp ǵ để giải quyết? Dùng giáo dục! Chỉ cần quư vị dạy người ta giác ngộ, giúp họ phá mê khai ngộ; hễ họ khai ngộ, sẽ có thể giải quyết vấn đề. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, nhưng tri thức không thể. Tri thức giải quyết vấn đề giới hạn, và c̣n để lại hậu quả, trí huệ chẳng vậy, trí huệ chẳng có ngằn mé, chắc chắn chẳng để lại hậu quả!
Đại Thừa Phật pháp là trí huệ viên măn, trí huệ do đâu mà có? Sẵn có trong tự tánh, đó là giác tánh. Giác tâm bất động, giác tánh là trí huệ, là cái quư vị vốn sẵn có, giác tánh là ǵ? Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết), chẳng sanh, chẳng diệt. Lúc Huệ Năng đại sư kiến tánh đă báo cáo rất đơn giản, hai mươi chữ, quả thật là “vốn tự thanh tịnh”. Tâm quư vị có ô nhiễm hay không? Chẳng có! Dẫu tạo tác ác nghiệp, đọa vào A Tỳ địa ngục vẫn chẳng ô nhiễm. Nếu nó bị ô nhiễm, sẽ chẳng gọi là chân tâm, mà là hư vọng. V́ vậy, ô nhiễm là ǵ? Ô nhiễm là A Lại Da bị ô nhiễm. Tôi vừa mới nói tới Nghiệp Tướng, Cảnh Giới Tướng, và Chuyển Tướng, những thứ ấy bị ô nhiễm, nhưng tự tánh chẳng ô nhiễm, tự tánh mới là con người chân thật của chính ḿnh. Đại Thừa Phật giáo thường gọi nó là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai mục” (diện mạo sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra); nhưng mê liền biến thành A Lại Da, giác ngộ th́ A Lại Da chẳng có, kiến văn giác tri hiện tiền. Kiến văn giác tri trọn khắp pháp giới hư không giới, toàn bộ hư không pháp giới là một sanh mạng có chung một cái Thể, đấy là luân lư theo quan điểm nhà Phật. Luân lư là nói về quan hệ. Chúng ta sống trong thế gian này, nói tới Ngũ Luân, tức là quan hệ cha con, quan hệ anh em, quan hệ vua tôi, quan hệ bè bạn, nói tới những mối quan hệ này. Nhưng Phật gia nói tới luân lư, bèn nói tột cùng viên măn, v́ sao? Cả hư không pháp giới cùng chính ḿnh là một Thể, chẳng phải là một nhà, mà là một Thể, một sanh mạng có cùng một Thể! V́ vậy, ḷng yêu thương chẳng có phạm vi, chẳng có điều kiện, được gọi là Vô Duyên Đại Từ. Nói theo hiện thời, “duyên” là điều kiện, [vô duyên] là chẳng có điều kiện. Đồng Thể Đại Bi: Thương xót chúng sanh có cùng một Thể [với chính ḿnh], trên thân ta chỗ nào đau ngứa, ta rất quan tâm tới chỗ ấy, đồng thể mà! Đại Thừa Phật pháp thấy trọn khắp pháp giới hư không giới có cùng một Thể với chính ḿnh, điều này quá khó! Nay chúng ta v́ sao chẳng thể khế nhập cảnh giới? V́ chúng ta có Ngă, ta và người khác vạch rơ giới tuyến, chẳng biết tự tha chẳng hai, tự và tha là một, chẳng biết đạo lư này!
V́ vậy, trong Phật pháp, trước hết là phải phá Thân Kiến, chẳng c̣n chấp trước cái thân này là Ngă. Thân này là ǵ? Thân có sanh diệt, Ngă chẳng sanh diệt, Ngă là giác tánh, giác tánh chẳng sanh diệt, kiến văn giác tri là giác tánh. Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bàn vấn đề này với vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc lo ngại, tuổi đă già rồi, lúc ấy, vua sáu mươi hai tuổi, bằng tuổi Thích Ca Mâu Ni Phật, dần dần già rồi sẽ phải bệnh chết, lo sầu chuyện này. Thích Ca Mâu Ni Phật liền hỏi nhà vua, nhằm dạy bảo vua, gọi vua là “đại vương” v́ vua là quốc vương, hỏi vua: “Đại vương thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?” Vua thưa: “Ba tuổi”. Mẹ dẫn vua đến một nơi cũng là một thần miếu (miếu thờ thần), lúc tới chiêm bái thần miếu, có đi trên bờ sông Hằng hà, biết đó là ḍng sông Hằng, nh́n thấy sông. Đức Phật nói: “Lúc đại
vương mười ba tuổi, mười năm sau đó, đại
vương cảm thấy thân thể già hơn lúc ba tuổi rất nhiều, bị lăo hóa hay chăng!” “Đúng vậy”. Khi hai mươi ba tuổi, lại già hơn lúc mười ba tuổi mười năm, năm nay sáu mươi hai tuổi, thân thể biến hóa không ngừng. Đức Phật hỏi nhà vua: “Cái thấy của đại vương đối với nước sông Hằng có biến hóa hay chăng?” “Ba tuổi ta thấy nước sông Hằng, mười ba tuổi ta cũng thấy, lúc hai mươi ba tuổi ta cũng trông thấy”. “Tới sáu mươi hai tuổi, đại vương cũng thấy, cái thấy của đại vương có biến hóa hay chăng?” Vua thưa: “Chẳng biến hóa”. Đức Phật bèn nói: “Chẳng có biến hóa là bất sanh, bất diệt. Bị biến hóa là cái thân hư giả của
đại vương. Cái thân hư giả của đại
vương có sanh tử, c̣n cái chẳng sanh chẳng diệt sẽ chẳng sanh tử”. Vua Ba Tư Nặc do vậy giác ngộ, rất vui vẻ, vốn là thân đă chết, nhưng linh tánh của ta trọn chẳng thật sự chết!
Thân là ǵ? Thân chẳng phải là Ngă, thân là sở hữu của Ngă, là công cụ, giống như y phục, là quần áo của ta, thân để ta sử dụng, dùng vài chục năm chẳng c̣n thuận tiện sử dụng nữa bèn thay bộ khác, thay đổi thân thể; nhưng trong đây có mê hay ngộ. Lúc mê gọi là “linh hồn”, lúc ngộ gọi là “linh tánh”. Lúc mê, phạm vi hoạt động của linh hồn là lục đạo, không thoát ĺa lục đạo luân hồi. T́nh h́nh trong lục đạo đă được con người phát hiện rất sớm, cần biết là hơn một vạn năm trước, điều này đă được các tôn giáo và học phái xa xưa của Ấn Độ nhận biết. Lịch sử của họ lâu hơn chúng ta! Tôi có qua lại với họ, các trưởng lăo Ấn Độ bảo tôi: Tôn giáo của họ tương truyền đă lâu hơn một vạn năm, chúng ta có thể tin tưởng [chuyện này]. Người Ấn Độ không chú trọng lịch sử, chẳng giống người Trung Quốc đời đời truyền thừa; nhưng hiện tại cả thế giới thừa nhận họ (người Ấn Độ) có tám ngàn năm trăm năm [lịch sử], cũng
là sớm hơn Phật giáo năm ngàn năm, trên thực tế không phải chỉ có vậy! Thích Ca Mâu Ni Phật đă học những thứ của họ, điểm đặc sắc nhất trong sự tu học của họ là Tứ Thiền Bát Định, kinh Phật nói Tứ Thiền Bát Định là Bà La Môn giáo. Nếu tu môn Định này thành công, trong Định có thể đột phá các chiều không gian, cũng có nghĩa là: Quư vị nhập Định này, trong Định, quư vị đi lên, sẽ thấy hai mươi tám tầng trời, đi xuống, có thể thấy địa ngục. Chỉ cần quư vị tu Định này, đều có thể thấy được. Tầng lớp sâu cạn khác biệt trong Định này, nói chung gồm bốn thứ: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền; Bát Định là tầng cao nhất, tức là nói đến Vô Sắc Giới Thiên. Tứ Thiền thấy tới Sắc Giới Thiên; đạt đến Đệ Bát Định, sẽ thấy Vô Sắc Giới Thiên, hai mươi tám tầng trời đều trông thấy. A La Hán chẳng phải chỉ như vậy, A La Hán tu Cửu Thứ Đệ Định, đột phá lục đạo luân hồi, đạt tới một thế giới khác. Quư vị chân tu, sẽ thật sự thấy, chẳng giả tí nào, nhưng đức Phật nói đấy vẫn chưa phải là rốt ráo, rốt ráo th́ c̣n phải tiến lên cao hơn nữa. Quư vị thấy: A La Hán vẫn chưa thấy A Lại Da; Bồ Tát cũng chẳng thấy, Phật trong mười pháp giới vẫn chưa thấy! Phải buông khởi tâm động niệm xuống, cái tâm ấy thật sự định, Định là ǵ? Đó là chân tâm. Chân tâm vốn bất động, quư vị thấy Huệ Năng đại sư nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn vô dao động” (nào ngờ tự tánh, vốn không lay động), trước nay chưa hề động! Bất động là chân tâm, bị động là vọng tâm, vọng tâm là ư niệm, khởi tâm động niệm! Niệm có tịnh, có nhiễm; tịnh bèn ra khỏi lục đạo luân hồi, nhiễm sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong nhiễm có thiện, có ác; thiện niệm cảm ba thiện đạo, ác niệm cảm ba ác đạo. Trong nhiễm có thiện, ác; trong tịnh chẳng có thiện, ác. Đó là tứ thánh pháp giới, vẫn chưa phải là chân. Chân th́ sao? Nhiễm, tịnh, thiện, ác, thảy đều chẳng có, đó là chân, bèn vượt thoát mười pháp giới.
Chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động, kiến văn giác tri sẵn có trong tự tánh bèn hiện tiền, chúng bất động, kiến văn giác tri bất động. Lúc mê biến thành A Lại Da Thức; trong A Lại Da Thức, kiến văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ là quư vị có cảm nhận, tức là có cảm nhận “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả”. Tưởng là quư vị có suy nghĩ. Hành là ư niệm chẳng trụ, niệm trước vừa diệt, niệm sau bèn sanh, đó là Hành. Nay chúng ta nói một cách rất dễ hiểu th́ Thức là kư ức, những ǵ quư vị đă từng trải qua đều có thể ghi nhớ, đó là tác dụng của Thức. Hôm qua, tôi nghe một đồng học cho biết: Họ thấy trên Internet, đại khái là ở Mỹ, một số khoa học gia trong khi nghiên cứu, đă phát hiện nước có kư ức. Thí nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng cho chúng ta biết: Nước có thể nghe, thấy, hiểu ư nghĩ của con người. Họ c̣n tiến hơn bước nữa là phát hiện nước c̣n có kư ức. Đây là khoáng vật, trong kinh Phật đă sớm nói đến rồi! Kinh Phật dạy chúng ta: Tâm và vật cùng một Thể, vĩnh viễn chẳng tách rời. Trong vật có tâm, trong tâm có vật. Bất luận vật chất ǵ đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sau khi tiến sĩ Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm này thành công, một đồng học phát hiện [tin ấy] trên Internet, in ra thành bốn trang đưa cho tôi xem. Sau khi tôi xem xong, vô cùng vui vẻ, khoa học gia đă chứng tỏ tất cả hết thảy hiện tượng vật chất đều có năng lực ấy, đó là bản năng (năng lực sẵn có). Nước có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bùn đất có hay không? Đương nhiên là có! Đá có hay không? Đương nhiên là có. Một hạt cát, một hạt bụi cũng có, theo Phật pháp nói, một cọng lông, một sợi lông cũng trọn đủ [các năng lực ấy]. Thoạt nghe th́ rất thần kỳ, nhưng là sự thật.
Chúng ta thấy cuộc đối đáp giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Bồ Tát, cuộc đối đáp ấy là khoa học cao cấp. Thuở ấy, thầy Phương giới thiệu Phật giáo với tôi, đă nói Phật giáo là triết học cao cấp. Tôi hiểu, tôi cũng phát hiện Phật giáo là khoa học bậc cao. Nhỏ như vi trần, khoa học hiện thời gọi vi trần là nguyên tử, điện tử, lạp tử, hạt cơ bản là khoa-khắc (quark), nhục nhăn chẳng thấy được; đó là vật chất; trong các vật chất như vậy cũng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. V́ vậy, chúng có sanh mạng, chúng sống động. Theo như Phật pháp giảng, cả vũ trụ là một thể hữu cơ (organism), chẳng phải là chết cứng, mà sống động. Chứng minh bằng cách nào? Dùng phương pháp Thiền Định để chứng minh. Không giống như khoa học, khoa học dùng các máy móc, máy móc đôi khi c̣n có lầm lẫn, sai lệch; Thiền Định chẳng sai lạc. Từ trong Thiền Định rất sâu, đột phá từng tầng chướng ngại, quư vị sẽ thấy được. Người đời c̣n có một phương pháp, nhưng rất hữu hạn, chỉ có thể chứng minh chuyện này là có thể xảy ra, chẳng giả, đó là thuật thôi miên rất thịnh hành ở phương Tây trong ṿng nửa thế kỷ trở lại đây! Trong lúc được thôi miên rất sâu, quư vị có thể trở lại đời quá khứ, thậm chí trở lại nhiều đời trong quá khứ. Tôi đọc báo cáo của bác sĩ Ngụy Tư (Brian L. Weiss) nước Mỹ, đă có một người được thôi miên đă quay lại gần như mấy chục đời, không chỉ mấy chục đời, mà gần như bảy tám mươi đời, tức là hơn bốn ngàn năm trước! Hoàn cảnh lúc ấy là c̣n sống trong hang động, con người chưa biết ở trong nhà cửa, mà sống trong hang động. Người ấy có thể nói ra t́nh trạng sống lúc ấy, tuyệt đối chẳng phải là bịa đặt. V́ vậy, từ thôi miên có thể chứng thực. Thiền Định chứng thực con người thật sự có thể trở lại quá khứ, cũng thật sự có thể thấy được vị lai. V́ sao? Thời gian và không gian là giả. Đại Thừa Phật pháp dạy chúng ta: Chẳng có thời gian. Chẳng có thời gian, sẽ chẳng có trước sau; chẳng có không gian, sẽ chẳng có khoảng cách. Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức cơi Phật; nếu không gian bị đột phá, thế giới Cực Lạc ở đâu? Thế giới Cực Lạc ở ngay nơi đây. Các nhà khoa học đă thừa nhận thời gian và không gian chẳng có thật, nhưng dùng phương pháp ǵ để đột phá họ không biết! Các chiều không gian (không
gian duy thứ: Spatial dimensions) do đâu mà có chúng ta đều biết, kinh Phật đă giảng rất rơ ràng chúng do đâu mà có? Từ vọng tưởng, chấp trước mà ra! Quư vị chẳng có vọng tưởng, chấp trước, các chiều không gian sẽ chẳng c̣n nữa! Đều phải tu Định, phải tu tâm thanh tịnh, phải tu tâm b́nh đẳng; thanh tịnh có thể đột phá lục đạo, b́nh đẳng có thể đột phá mười pháp giới, giác tâm có thể đột phá toàn thể vũ trụ, ba tầng lớp như vậy. Phải có công phu như thế nào? Buông xuống! Quư vị chẳng buông xuống sẽ chẳng được, phải thật sự buông xuống!
V́ vậy, tôi rất cảm tạ thầy tôi. Người xuất gia tôi gặp mặt đầu tiên là Chương Gia đại sư, tôi hướng về Ngài thỉnh giáo, tôi nói: Thầy Phương giới thiệu Phật pháp cho tôi, tôi biết [Phật
pháp] đúng là một môn đại học vấn, có phương pháp ǵ để có thể khế nhập cảnh giới hay chăng? Tôi nêu câu hỏi như thế, nêu câu hỏi xong, lăo nhân gia không trả lời tôi. Ngài nh́n tôi, tôi cũng nh́n Ngài, chúng tôi ở trong căn pḥng khách nhỏ ấy nh́n nhau nửa giờ. Tôi đợi nửa giờ, đợi đến khi Ngài nói một chữ: “Có”. Có! Tinh thần chúng tôi phấn chấn, chú ư nghe, Ngài lại chẳng nói năng ǵ, lại đợi sáu, bảy phút, Ngài mới lại nói: “Thấy thấu suốt, buông xuống”. Mấy chục năm sau, tôi mới nghĩ ra: Khi ấy, v́ lẽ nào Ngài nh́n tôi nửa giờ chẳng nói ǵ? Tôi tuổi trẻ, bộp chộp, nóng vội, nhất định phải đợi cho tâm t́nh lắng xuống, vọng niệm chẳng c̣n, lúc ấy nói với quư vị th́ mới có ích, quư vị mới thật sự nghe lọt. Nói một chữ Có, tâm tư chúng tôi lại xáo động, lại chuyển động, không được rồi, vẫn phải chờ cho tâm t́nh lắng xuống. Nay tôi nh́n vào nhiều trường học, ấn tượng sâu nhất là khi tôi ở Luân Đôn, đến thăm trường đại học Kiếm Kiều (Cambridge) tại Luân Đôn, tôi thấy sinh viên ở đấy kể ra c̣n khá, tốt hơn những trường khác, vẫn chẳng khác lắm so với lúc tôi trẻ tuổi. Gặp Chương Gia đại sư, Ngài chẳng nói ǵ, cứ trừng mắt nh́n, khi nào quư vị có thể định được tâm thái bồng bột, Ngài mới nói với quư vị. Từ điểm này, chúng tôi hiểu được sự giáo học của cổ nhân. Bởi lẽ, thời cổ, trẻ nhỏ được bồi dưỡng sự ổn trọng từ nhỏ, nhất cử, nhất động đều giống như một người trưởng thành thu nhỏ, nên nó có thể tiếp nhận [giáo dục đạo đức]. C̣n như những trẻ nhỏ của phương Tây, chẳng có cách nào tiếp nhận, tiếp nhận khoa học kỹ thuật th́ được, chứ chúng chẳng có năng lực tiếp nhận loại học vấn như của Trung Quốc. V́ vậy, học ǵ cũng đều cần tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, thật sự là cơ sở để học theo cổ thánh tiên hiền. Thiếu cơ sở này, chúng ta chỉ nghe những kiến thức thông thường bề ngoài, chẳng có cách nào khế nhập cảnh giới!
Trong đoạn tiếp theo, vẫn là điều được nói trong kinh Viên Giác: “Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt” (cái huyễn diệt bị diệt, nhưng cái chẳng huyễn bất diệt). Huyễn là giả, chẳng thật, quư vị chẳng thể nói nó chẳng có tướng, nay tất cả các hiện tượng đều hiện tiền, làm sao quư vị có thể nói là không có tướng? Tuy hiện tượng hiện tiền, chẳng thể nói là nó có, v́ sao chẳng thể nói là nó có? Tướng ấy là huyễn tướng, thật vậy, giống như những tấm phim trong máy chiếu phim. Chúng ta coi phim, phim hiện thời dùng kỹ thuật mă hóa (digitalized), chẳng dễ ǵ thấy được [chúng là huyễn tướng]! Trước đây, điện ảnh dùng phim nhựa. Ở đây, tôi vẫn có vài cuộn phim, phim xi-nê. Đây là cuốn phim nhựa, đây là máy chiếu; quư vị thấy mỗi tấm ảnh trong cuộn phim là một tướng cảnh giới, là một huyễn tướng. Ống kính của máy chiếu phim mở ra, tấm phim này được chiếu lên màn bạc; ống kính đóng lại, lại đổi sang tấm phim thứ hai, tấm phim thứ nhất chẳng c̣n, lại đổi sang tấm phim thứ ba, [tấm
phim thứ hai chẳng c̣n]. Nó thay đổi nhanh chóng, trong một giây thay đổi hai mươi bốn tấm, chúng ta bèn bị gạt, chúng ta coi phim giống như bị nó mê hoặc, dường như là thật, thật ra tốc độ là một phần hai mươi bốn phần giây. Hiện tượng trong vũ trụ hiện tại của chúng ta nhanh hơn tướng được hiện trên màn ảnh bao nhiêu? Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát, thật ra, hai Ngài một hỏi một đáp cho chúng ta nghe, song tấu cho chúng ta nghe ḥng giác ngộ. Phật hỏi, Di Lặc Bồ Tát đáp. Đức Phật nói tâm có niệm, đây là nói về những kẻ b́nh phàm giống như chúng ta trong tâm khởi lên ư niệm, trong một niệm có bao nhiêu tế niệm? Có mấy niệm? Đó là ư niệm vô cùng vi tế, giống như chúng ta trong một giây nh́n các h́nh ảnh hiện trên màn bạc, h́nh ảnh trong phim, thấy một giây là hai mươi bốn niệm, hai mươi bốn niệm sanh diệt, chúng ta coi mỗi niệm là một giây; c̣n Di Lặc Bồ Tát nói tới một cái khảy ngón tay, một cái khảy ngón tay chưa đầy một giây! Nếu chúng ta khảy nhanh, trong một giây có thể khảy bốn lần. Khảy nhanh hơn sẽ có thể khảy năm lần. Ngài nói một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn, trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Ba mươi hai ức nhân với mười vạn là ba trăm hai mươi triệu, chúng ta làm sao có thể biết nó là giả được! Nếu một giây chúng ta khảy năm lần, trong một giây có bao nhiêu tế niệm? Một ngàn sáu trăm triệu! Trên màn bạc điện ảnh, một giây mới là hai mươi bốn lần, hai mươi bốn niệm sanh diệt, c̣n hoàn cảnh hiện thực là trong một giây có một ngàn sáu trăm triệu, ai có thể thấy được? Trong kinh, đức Phật nói: Bát Địa Bồ Tát! Bát Địa Bồ Tát do cái tâm [thanh tịnh, không chấp trước] và công phu định lực có thể nh́n thấy một giây có một ngàn sáu trăm triệu niệm vi tế như vậy, Ngài có thể nhận biết. Từ Bát Địa trở lên là Cửu Địa Bồ Tát, Thập Địa, Đẳng Giác Bồ Tát, Diệu Giác, những vị thuộc năm địa vị này thấy rơ ràng; đấy là thấy được căn nguyên duyên khởi vũ trụ. Dụng cụ khoa học chẳng có cách nào, làm không được, [căn nguyên ấy] quá vi tế. Những công cụ của các nhà khoa học có thể thấy được [ba tế tướng của] A Lại Da th́ kể ra là đă khá lắm rồi, c̣n niệm này tột bậc vi tế, [mong thấy được nó] quá khó khăn!
Chúng ta tưởng thế giới này là thật, do đức Phật dạy như vậy, chúng ta mới biết thế giới này luôn được tạo thành trong mỗi niệm, do những niệm cực kỳ vi tế tụ tập nên mới thành tựu. Do vậy, tướng chẳng thật, chúng là huyễn tướng, giống như nay chúng ta đang xem TV, TV hiện thời dùng kỹ thuật mă hóa, nhanh hơn tốc độ của điện ảnh, quư vị càng thấy rất thật. Quư vị hiểu toàn thể hiện tượng trong vũ trụ rất giống với chuyện [chiếu phim] này, chẳng thể nói nó là giả, nhưng cũng chẳng thể nói nó là thật. Nếu quư vị nói nó là thật th́ nó niệm niệm chẳng tồn tại, niệm trước chẳng phải là niệm sau. Trong lúc giảng kinh, chúng tôi thường dùng chữ “tương tự tương tục tướng” (tướng gần giống như liên tục) để chỉ tướng này. Tướng trước và tướng sau tuyệt đối khác nhau, nhưng rất gần gũi, rất tương tự, chẳng hoàn toàn tương đồng, mỗi tấm phim khác biệt, chúng ta phải hiểu đạo lư này. Hoàn toàn khống chế ư niệm th́ ư niệm của quư vị càng thanh tịnh. Nói cách khác, nó biến hóa, từng tấm phim đều biến hóa, nhưng mức độ biến hóa rất nhỏ. Nếu tâm quư vị bộp chộp, nóng nảy, phiền năo tập khí rất nặng, sự biến hóa này cũng rất lớn. [Biến hóa] rất lớn th́ thí dụ như chúng ta suy lăo nhanh chóng, [biến hóa] rất chậm th́ chúng ta cũng già rất chậm. Đạo lư ở chỗ này, nó có đạo lư! Sau khi quư vị liễu giải Phật pháp, nh́n lại thấy Trung Y đúng là rất phi phàm, thật sự có lư, kinh Phật đă giảng thấu triệt. V́ vậy, chúng ta có thể khống chế chính ḿnh, chúng ta làm thế nào để chẳng mắc bệnh, hoàn toàn khống chế từ tâm thái, tâm lượng phải lớn, nhất định phải có tâm từ bi, nhất định chớ nên có ḷng oán hận. Oán, hận, phiền năo, tức giận, phiền muộn, đều là duyên gây nhiễm bệnh, nhân là tham, sân, si, mạn, nghi. Tham, sân, si, mạn, nghi là nguyên nhân gây bệnh;
oán, hận, phiền năo, tức giận, phiền muộn là nguồn gốc gây bệnh. Nhân duyên kết hợp, các tế bào sẽ sanh ra virus, sẽ biến thành virus. Quư vị hiểu đạo lư này, chỗ nào có bệnh, quư vị liền giữ cho tâm địa thanh tịnh, nghĩ đến những điều tích cực! Chúng ta học kinh này, học Đại Thừa, ta liền khởi lên mười chữ Bồ Đề tâm, quư vị nghĩ tới “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”, nghĩ tới những điều này. Các tế bào bị nhiễm virus sẽ khôi phục b́nh thường. Chúng phục tùng ư niệm của quư vị. Nếu người khác làm thiện sự, tụng kinh hồi hướng cho quư vị th́ cũng có lợi đôi chút, chẳng nhiều lắm, không lớn, chính ḿnh vừa chuyển ư niệm sẽ có sức mạnh to lớn. Người khác gia tŕ quư vị chẳng phải là vô dụng, mà là hữu dụng! Cũng có ích đôi chút, nhưng hiệu quả chẳng trực tiếp như vậy. Nếu ư niệm thật sự xoay chuyển, hồi tâm hướng thiện, sẽ chuyển rất nhanh!
Chúng ta hiểu đạo lư này: “Huyễn diệt diệt cố, phi huyễn bất diệt”. “Phi huyễn” là giác tánh; v́ vậy, nó là b́nh thường, chỉ cần trừ khử những thứ hư vọng, nó sẽ khôi phục b́nh thường, vốn là b́nh thường, vốn khỏe mạnh. Như thầy Lư đă bảo tôi: Con người vốn có thể sống thọ tới hai, ba trăm tuổi, sống hai ba trăm tuổi cũng chẳng hiếm lạ tí nào! Quan trọng nhất là tâm thái phải b́nh thường, chớ nên có tạp niệm, chớ nên có phiền năo. Trong xă hội này, cái được gọi “chuyện chẳng như ư” thường chiếm đến tám chín phần, đều là có nguyên nhân. Người này hủy báng ta, ta nhận lănh, chớ nên ghim trong ḷng, mà hăy cảm tạ kẻ đó! V́ sao cảm tạ hắn? Cũng giống như kẻ đó đến khảo nghiệm công phu của ta, coi ta có thể nhẫn hay không? Ta chịu đựng được th́ đạt, ta vượt được cái ải này, chẳng ghim trong ḷng, cảm tạ hắn. Hắn tổn hại ta, lăng nhục ta, đều là khảo nghiệm, khảo nghiệm bằng nghịch cảnh; c̣n thuận khảo th́ làm cho quư vị vui sướng. Nếu quư vị đang bị thuận khảo th́ sẽ là thuận cảnh thiện duyên, trong t́nh h́nh ấy, hết thảy đều rất thuận lợi, nếu quư vị khởi lên tham luyến, sanh tâm hoan hỷ, cũng trật rồi! V́ sao? Thất t́nh ngũ dục là phiền năo. Trong thuận cảnh chẳng tham luyến, trong nghịch cảnh chẳng oán hận, vĩnh viễn giữ ǵn tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, khi ấy mới gọi là “huyễn diệt diệt tận”. Liễu giải chân tướng là thấy thấu suốt. Liễu giải chân tướng “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng” như kinh Kim Cang đă dạy: “Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi là ǵ? Hữu vi là có sanh, có diệt. Quư vị thấy có pháp nào chẳng sanh diệt, động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật, núi, sông, đại địa thành, trụ, hoại, không, chẳng có một
thứ nào không sanh diệt. Đă có sanh diệt th́ quư vị biết những hiện tượng ấy do đâu mà có? Hiện tượng tụ tập trong từng sát-na. Di Lặc Bồ Tát nói: Trong một khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, khởi lên như vậy. Niệm niệm đều bất khả đắc; v́ vậy, quư vị có thể hưởng thụ hết thảy tướng cảnh giới, nhưng đừng chấp trước, chớ nên chiếm hữu, chẳng thể chiếm hữu được! Ngay cả thân thể cũng chẳng thể chiếm hữu. Nếu ta có thể chiếm hữu thân thể, ta sẽ mười tám tuổi măi măi, tốt hơn nhiều! Vĩnh viễn chẳng già v́ ta đă chiếm hữu. Quư vị chẳng chiếm hữu được, nên nó biến hóa trong từng sát-na. Tất cả hiện tượng đều là huyễn hóa, kể cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai như đức Phật đă giảng trong kinh. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm biến hóa hết sức chậm răi. Do vậy, chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, thấy kinh miêu tả t́nh trạng trong thế giới Cực Lạc: Người trong thế giới Cực Lạc trường sinh bất lăo, chẳng bị bệnh, không sanh bệnh, cũng chẳng bị già yếu. Hoa trong thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng tàn. Do nguyên nhân ǵ? Do người sống trong cơi ấy trong tâm chẳng có phân biệt, chấp trước. V́ sao c̣n có hiện tượng? Do họ có khởi tâm động niệm. Khi chẳng có phân biệt, chấp trước, sự biến hóa trở nên vô cùng chậm răi, dẫu thời gian lâu đến đâu đi nữa, họ vĩnh viễn trẻ trung do đạo lư này. Nếu chúng ta hiểu, sẽ buông tập khí phiền năo xuống, tốc độ già yếu trong thế gian này sẽ chậm lại, là do đạo lư như vậy!
Tôi học Phật, cảm kích thầy đă truyền dạy tôi hăy “thấy thấu suốt, buông xuống”. Ngày đầu tiên gặp mặt, câu đầu tiên thầy dạy tôi, thật chẳng dễ dàng, đă
nói cho tôi biết một bí mật của Phật pháp. Chúng tôi mới biết từ Sơ Phát Tâm cho tới địa vị Như Lai là như vậy, “thấy thấu suốt, buông xuống; buông xuống, thấy thấu
suốt”. Lúc quư vị điều ǵ cũng buông hết xuống, ngay cả buông xuống cũng chẳng có, cũng buông xuống luôn, chúc mừng quư vị, quư vị đă thành Phật, trở về Thường Tịch Quang. Tập khí chưa đoạn sẽ là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, như tôi vừa mới nói, trong cơi ấy vĩnh hằng bất diệt, hoa vĩnh viễn tươi mới, chẳng héo hon, rơi rụng, con người vĩnh viễn trẻ trung, chẳng già yếu. Thật sự có đạo lư, những đạo lư ấy chúng ta đều có thể dùng được, lúc dùng sẽ thật sự hữu hiệu. Thầy tu hành thật sự có công phu, chẳng giả. Thưa quư vị, vị thầy này là một trong Tứ Đại Lạt Ma. Bốn vị này, hai vị ở Tây Tạng là Đạt Lại và Ban Thiền, hai vị ở Mông Cổ: Chương Gia ở Nội Mông, Triết Bố Tôn Đan Ba ở Ngoại Mông. Bốn vị này đều là học tṛ của Tông Khách Ba đại sư. Bốn đại đệ tử của Tông Khách Ba ở bốn phương giáo hóa chúng sanh, tôi rất may mắn gặp một vị. Chúng tôi tuổi trẻ, chưa từng tiếp xúc Phật pháp. V́ vậy, tôi đă từng rất mạo muội thỉnh giáo Ngài, chúng tôi gọi Ngài là “Phật gia”. Tôi nói: “Thưa Phật gia, nghe nói các Ngài chuyển thế, Hoạt Phật (Phật sống) chuyển thế là thật hay giả?” Tôi hỏi Ngài câu ấy. Vị thầy này thật tốt, luôn nói lời thật, chẳng lừa gạt chút nào! Ngài dạy: “Ba đời đầu tiên có thể là thật, những đời sau sẽ chẳng thật”. Ngài là [Chương Gia] đời thứ mười sáu, thuộc về đời sau nên chẳng thật. Ngài nói: “Đứa linh đồng sau khi được t́m ra, tuyển chọn, sẽ được giáo dục tốt nhất, được vị thầy đức hạnh nhất, học vấn khá nhất đương thời dạy dỗ, người b́nh thường chẳng gặp được [cơ hội ấy]. Nếu nó thật sự chịu học, sẽ có bản lănh khá sâu!” Điều này đúng là khó có, giống như hoàng tử thuở trước, được hưởng sự giáo dục mà người khác chẳng được hưởng. Trước đây, vào thời đại đế vương, cả thiên hạ là của nhà vua, đế vương “đăng cơ”, đó cũng là điển lễ nhậm chức. Chuyện lớn đầu tiên là lập Thái Tử, nhằm bồi dưỡng thế hệ kế tiếp. Sau khi lập Thái Tử, thỉnh mấy vị đức hạnh ưu tú và có học vấn nhất trong nước làm thầy của Thái Tử. Thái tử thật sự tích cực học tập th́ triều đại kế tiếp sẽ tốt đẹp, con em của văn vơ bá quan cùng học ké, đó là nhằm bồi dưỡng một tiểu triều đ́nh kế tục. Thật sự dụng tâm, đời trước thật sự chịu trách nhiệm đối với đời kế tiếp. Trung Quốc khác ngoại quốc, ngoại quốc đúng là chuyên chế, Trung Quốc chẳng phải vậy! Quư vị đọc lịch sử Trung Quốc cẩn thận sẽ thấy lịch đại đế vương của Trung Quốc rất có trách nhiệm, kẻ thiếu trách nhiệm đă bị người khác lật đổ!
Do vậy, các hoàng đế thuộc những đời cuối của mỗi triều đại đều là kẻ chẳng tuân thủ giáo huấn của tổ tông, phá hoại toàn bộ gia quy, nên bị kẻ khác thay thế. Nếu họ thật sự tuân theo gia pháp do tổ tông truyền lại, y giáo phụng hành, triều đại của họ sẽ tiếp tục truyền thừa. Thầy Phương từng bảo tôi: “Khổng Tử bội phục Châu Công là có lư”. Lăo nhân gia suốt đời khâm phục Châu Công nhất. Cụ nói Châu Công đúng là thánh nhân đă tạo ra một bản điển chương chế độ là Châu Lễ. Châu Lễ là hiến pháp của nhà Châu. Thầy bảo tôi đọc, nhưng tôi chẳng có hứng thú đối với chánh trị, thầy bảo tôi nhiều lần, nhưng tôi chưa đọc Châu Lễ. Cụ nói nếu đời nào của nhà Châu cũng đều tuân thủ giáo huấn trong bộ sách ấy th́ đến nay vẫn là nhà Châu, cụ đă nói một câu như thế. Đó là v́ đối với từng câu, từng chữ, Châu Công đều nghĩ thay cho người trong thiên hạ, chẳng hề v́ chính ḿnh. Do vậy, tác phẩm của ông ta chịu được sự khảo nghiệm [của thời gian và t́nh thế xă hội]. Trong lịch sử Trung Quốc, triều đại nhà Châu lâu nhất, tám trăm năm, nhưng đến cuối thời, năm trăm năm cuối cùng trong tám trăm năm ấy là thời Xuân Thu Chiến Quốc, là đời loạn. Triều đ́nh nhà Châu tuy xưng Thiên Tử, chư hầu chẳng nghe lệnh, nhưng nhà Châu vẫn có hơn ba trăm năm gần như tới bốn trăm năm yên b́nh lâu dài. Vấn đề ở chỗ nào? Vấn đề ở chỗ có tích cực thúc đẩy giáo dục hay không. Bởi lẽ, “kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị nhân dân, giáo dục đứng đầu), câu này là chân lư! Chỉ cần thực hiện tốt giáo dục, vấn đề ǵ cũng đều được giải quyết, con người được dạy dỗ tốt đẹp rồi! Trung Quốc ổn định lâu dài mấy ngàn năm, càng lâu càng mới mẻ, cậy vào đâu? Cậy vào giáo dục. C̣n có một cơ cấu vững vàng mà cả thế giới đều chẳng có; đó là gia tộc. Gia tộc của Trung Quốc gánh vác trách nhiệm xă hội, có nhiều cống hiến đối với Trung Quốc! Trung Quốc là đại gia đ́nh, quư vị tới nông thôn Trung Quốc để xem: Đây là thôn họ Trương, kia là thôn họ Lư, là người một nhà, ngũ, lục đại đồng đường (năm sáu thế hệ cùng sống trong một nhà), chẳng tách ra. Do vậy, một gia tộc gần như có khoảng ba trăm người, nếu chẳng có quy củ, chẳng có chế độ, làm sao gia tộc không loạn được? Tan nhà, chết người liền! V́ vậy, đối với người Trung Quốc, trẻ nhỏ được dạy từ lúc mang thai, thai giáo đấy! Vừa sanh ra, quư vị phải biết: Đứa nhỏ ấy vừa biết nh́n, biết nghe đă học tập, đă mô phỏng, gieo trồng căn bản giáo dục trong ba năm, tức là cho đến ba tuổi. [Được giáo dục] từ lúc ra đời cho đến khi tṛn ba tuổi là một ngàn ngày, đó gọi là đặt vững căn bản giáo dục. Đặt vững căn bản giáo dục do ai dạy? Mẹ dạy. Người mẹ vĩ đại, giúp chồng, dạy con, gia đ́nh quư vị có đời sau nên người hay không tùy thuộc người mẹ. Dạy ǵ? Dạy luân lư, dạy đạo đức, dạy nhân quả, gốc rễ vững bền! V́ vậy, trước đây tại Trung Quốc có câu ngạn ngữ: “Tam tuế khán bát thập”, [nghĩa là] gieo trồng căn bản từ thuở ba tuổi th́ đến tám mươi tuổi chẳng thay đổi, gieo trồng căn bản kiên cố
lắm! V́ vậy, gia tộc có gia đạo, có gia quy, có gia học, gia học trước đây là tư thục, tức là trường học của con em trong gia tộc, có gia nghiệp, tức là sự nghiệp kinh doanh của gia tộc, trong gia phả mỗi nhà đều chép rất rơ ràng. V́ vậy, gia đă tề, quốc bèn trị!
Tôi thường nói, v́ tôi quen nhiều bạn bè, rất nhiều người có chân trong chánh trường, khi nói chuyện với họ, tôi nói: Thời quá khứ, trong xă hội Trung Quốc có ba trăm sáu mươi ngành nghề, nghề nghiệp tốt nhất là ai? [Những người] làm quan! Quư vị thấy văn chương, thi từ
trong phần Tập[1]
của bộ sách Tứ Khố Toàn Thư do ai viết? Đều do kẻ làm quan viết. Khi họ không làm việc, chẳng có vụ
án nào phải xử, ai nấy là người tốt, mọi chuyện là chuyện tốt, chẳng có vụ án nào! V́ vậy, họ là kẻ thanh nhàn nhất, đăi ngộ lại tốt đẹp, địa vị lại cao, được người khác tôn trọng, bất luận tới chỗ nào, đều được b́nh dân bá tánh yêu mến, cung kính. Họ thường lữ du, đến thăm các vị đạo trưởng, pháp sư, kết bạn phương ngoại[2] với họ, thật đấy. Trong xă hội hiện tại, nghề nghiệp khổ cực nhất là làm quan, v́ lẽ ǵ biến ra nông nỗi này? Giáo dục đă mất, gia tộc chẳng c̣n, gia giáo chẳng có. Chúng tôi cảm giác thật sâu đậm trong quá khứ, chúng ta trải qua tám năm kháng chiến chống Nhật, tám năm kháng chiến hy sinh tánh mạng, tài sản là chuyện nhỏ, [điều bị mất mát to lớn] là truyền thống gia tộc bị xóa sạch. Tề gia, quốc sẽ trị, thiên hạ sẽ thái b́nh, lịch đại đế vương nói là “thùy củng nhi trị” (khoanh tay chẳng làm ǵ mà đất nước b́nh trị); chẳng có chuyện ǵ, khoanh tay ngồi yên mà đất nước thịnh trị, thiên hạ thái b́nh, nhờ vào đâu? Cậy vào giáo dục, cậy vào gia tộc. Do vậy, trong quá khứ, trách nhiệm xă hội do gia đ́nh gánh vác, giáo dục do gia đ́nh phụ trách, dưỡng lăo cũng do gia đ́nh phụ trách. Một người sống trong thế gian này là v́ lẽ ǵ? V́ gia đ́nh, vinh tông diệu tổ, vẻ vang ḍng họ, sẽ chẳng làm chuyện xấu. Làm chuyện xấu, gia đ́nh bị mất mặt, tổ tiên bị thiên hạ chửi mắng, đó là đại bất hiếu! Truyền thống này t́m khắp thế giới không ra, chỉ riêng Trung Quốc có. Vào một trăm năm trước th́ Trung Quốc có, nhưng sau một trăm năm ấy cho tới hiện thời, chẳng có. Do vậy, hiện thời người Hoa rất khổ, chúng ta phải hiểu chuyện này! Làm sao mới có thể ĺa khổ được vui? Phải khôi phục gia tộc như trước kia, nhưng gia tộc theo kiểu quan hệ huyết thống th́ chẳng được! Mấy năm nay, tôi nghĩ đến xí nghiệp gia. Chẳng phải là thường nói “xí nghiệp gia” ư? Xí nghiệp là đoàn thể; nếu xí nghiệp có thể khôi phục tinh thần gia tộc Trung Quốc, Trung Quốc sẽ ổn định cả ngàn năm... Người Trung Quốc thật sự có đạo, đạo ấy chính là họ có phương pháp, vừa có lư luận, vừa có phương pháp. Hiện nay, dần dần cũng có mấy vị đồng tu trong Phật môn kinh doanh xí nghiệp, tôi khuyến khích họ, hăy kế thừa truyền thống gia tộc. Hiện thời phải kế thừa ra sao? Chủ nhân phải coi viên chức, công nhân trong xí nghiệp đều là anh em ruột hay chị em ruột, coi người già của những công nhân viên chức đều là chú bác của chính ḿnh, phải lănh trách nhiệm dưỡng lăo, coi con cái của công nhân, viên chức như con em, cháu chắt của chính ḿnh, phải đối đăi như vậy, quư vị là đại gia trưởng mà! Chính chúng ta phải mở trường dạy dỗ con em, dạy dỗ con thơ của công nhân, viên chức. Chính chúng ta phải mở viện dưỡng lăo, chứ không phải xă hội, [để phụng dưỡng] người già của công nhân, viên chức. Công ty, đoàn thể ấy kinh doanh, phụ trách dưỡng lăo, nuôi nấng trẻ thơ, chữa trị, gánh vác trách nhiệm xă hội, xí nghiệm đảm nhận [những trách nhiệm ấy]. Có gương tốt ấy, các xí nghiệp khác đều làm theo, nhân viên, công chức vĩnh viễn trung thành với xí nghiệp, v́ sao? Đối xử với họ quá tốt, trong nhà quư vị có chuyện ǵ họ đều gánh vác. Đó là một tổ chức đạo nghĩa, trước đây là quan hệ huyết thống, nay là quan hệ đạo nghĩa. Nếu sau khi cách này được truyền lại, Trung Quốc đúng là ngàn năm vạn đời yên ổn, chứ không phải là chẳng thể thực hiện được!
Quốc gia nay đang đề xướng một chủ nghĩa xă hội đặc sắc của Trung Quốc, điểm đặc sắc của Trung Quốc là ǵ? Hiếu! Dùng một chữ để nói th́ Trung Quốc là văn hóa “hiếu”, trên thế giới chẳng t́m được điều này! Từ Hiếu, diễn biến thành bốn khoa mục là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, mấy chữ này! V́ vậy, tôi tin tưởng tổ tiên Trung Quốc không chỉ [tồn tại trong lịch sử] năm ngàn năm, người Ấn Độ đă tồn tại hơn một vạn năm, tôi tin Trung Quốc trọn chẳng kém họ. V́ khi đó, [Trung Quốc] chưa có văn tự, văn tự do Hoàng Đế[3] phát minh. Từ khi có văn tự cho đến hiện tại mới là bốn ngàn năm trăm năm, [trước đó] chưa có văn tự. Tôi tin văn hóa truyền thống Trung Quốc tối thiểu cũng là hơn một vạn năm, trọn chẳng kém hơn Ấn Độ. Đời đời truyền thừa, tới khi có văn tự, Khổng lăo phu tử mới biên tập, hệ thống hóa hoàn chỉnh, dùng văn tự ghi lại những ǵ đă được truyền lại từ quá khứ, do tổ tông truyền lại, dùng văn tự viết xuống. V́ vậy, tôi tin là trong Luận Ngữ có rất nhiều điều do tổ tiên nói. Thái độ của phu tử là như lăo nhân gia đă nói rất hay, Ngài suốt đời: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ). Nói cách khác, Ngài tự nói Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, những ǵ Ngài đă học, tu, dạy, truyền lại đều là của cổ thánh tiên hiền. Thái độ học tập này tốt đẹp, những ǵ thật sự tốt đẹp đâu cần cứ phải do chính ḿnh đề ra, chẳng cần phải vậy! Do đó, lần này tôi chọn bản chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Đối với tôi, tức là đối với thân phận của tôi th́ có thể nói Hoàng lăo cư sĩ là thầy của tôi, tôi là học tṛ của cụ. Tuy chúng tôi chẳng có danh phận chính thức ấy, nhưng tôi quả thật mang tâm thái đó. Tôi và cụ là bạn già, trong xă hội hiện tiền, chúng tôi là hai người hoằng dương bộ kinh này. Tôi [hoằng dương] ở hải ngoại, cụ ở trong nước, đều rất cô đơn. Vừa gặp mặt, [cảm thấy] đúng là gặp gỡ tri kỷ. V́ vậy, khi lăo nhân gia c̣n sống trên đời, mỗi năm, tối thiểu tôi sang Bắc Kinh đôi ba lần để gặp cụ. Đúng là khó có! Nay tôi giảng bản chú giải của cụ là v́ lẽ ǵ? “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”! Bày đầu, nêu gương tốt! Không cần chính ḿnh phải chơi trội, những ǵ của cụ là của chính tôi, tự tha bất nhị. Dùng tên của người khác tốt đẹp th́ cần ǵ phải dùng đến tên ḿnh, chẳng có ư niệm ấy. Đấy là đi theo đường lối thánh hiền, tiếng tăm, lợi dưỡng thảy đều buông xuống, quư vị nói có phải là tâm chính ḿnh thanh tịnh nhiều lắm hay chăng? Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm thanh tịnh sanh pháp hỷ, sanh tâm hoan hỷ.
“Phi huyễn” là giác tánh. “Thí như ma kính, cấu tận, minh hiện” (ví như mài gương, chất dơ trừ hết, ánh sáng hiện). Quư vị phải biết “mài gương” là [tỷ dụ trong lời] chú giải của cổ nhân, cụ Hoàng cũng dùng [tỷ dụ này] của cổ nhân. Thời cổ, gương làm bằng đồng, phải thường xuyên mài, mài rất bóng sẽ có thể soi mặt. Khác với hiện thời, hiện thời tiến bộ hơn thuở trước quá nhiều; do vậy, nói “mài gương” người hiện thời chẳng hiểu. Nếu quư vị lấy cái gương thời cổ [để giảng], người hiện thời mới hiểu; đó là “mài gương”! Quư vị thấy gương cổ được đặt trong viện Bảo Tàng của Cố Cung, quư vị sẽ hiểu. Cái gương ấy phải thường xuyên mài, mài sạch sẽ, những thứ dơ bẩn trên mặt gương chẳng c̣n, gương lại tỏa sáng, bèn có tác dụng [soi chiếu]. Chúng ta tu hành cũng giống như vậy, phải mài sạch vọng tưởng, phân biệt, phiền năo, tập khí! Cách mài ra sao? Mài trong cuộc sống hằng ngày, mỗi ngày đều mài. Người tốt tán thán quư vị cũng là mài; nếu quư vị sanh tâm hoan hỷ, tức là nhơ bẩn, đă bị ô nhiễm; gặp phải nghịch cảnh, trong tâm quư vị bực bội, lại bị nhiễm dơ! Cảnh giới ǵ hiện tiền, quư vị đều có thể giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, cũng không ô nhiễm, đó là tu hành thật sự. Quư vị phải biết: Tu hành chẳng phải là hằng ngày niệm kinh, mỗi ngày gơ mơ niệm Phật, chẳng phải như vậy. Đấy cũng là một phương pháp, nhưng công phu thật sự ở nơi giác tánh. Quư vị thời thời khắc khắc [phải dốc công phu giác tánh trong những hành vi nhỏ nhặt như] mặc quần áo, ăn cơm. Mặc quần áo, quư vị cảm thấy y phục này chẳng dễ nh́n, lại khởi tâm động niệm, lại phân biệt, chấp trước rồi! Do vậy, mặc quần áo cũng là tu hành. Lúc ăn cơm, món này ngon ăn nhiều hơn một chút, ăn thêm mấy miếng, tâm tham của quư vị dấy lên. Món kia chẳng dễ coi, ăn không ngon, chẳng muốn ăn, quư vị cự tuyệt, quư vị thấy toàn bộ tập khí phiền năo hiện hành. Trong cuộc sống thường ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, thuận cảnh, nghịch cảnh, quư vị phải coi tất cả mọi người là Bồ Tát, họ giúp ta nâng cao cảnh giới, [đối với bất cứ người nào, chuyện nào, cũng đều là] chuyện tốt, người tốt! Người lừa đảo, hăm hại quư vị đều là người tốt; chẳng có họ, làm sao quư vị biết công phu của quư vị hiện tiền? V́ vậy, quư vị thường sanh tâm hoan hỷ, thấy ai cũng là Bồ Tát, thấy ai cũng là ân nhân, tri ân, báo ân. Cách báo ân như thế nào? Báo ân là sửa lỗi, tu thiện, nhất định giữ ǵn cái tâm thanh tịnh và tâm b́nh đẳng của chính ḿnh. Nếu có thể giữ ǵn giác tâm th́ càng tốt hơn, đó là rất viên măn. Đó gọi là thật sự báo ân, thật sự thành tựu, thật sự nâng cao [cảnh giới].
Tiếp đó, cụ Hoàng lăo nói: “Kinh trung sở vân huyễn diệt hậu chi giác tâm” (Giác tâm sau khi huyễn diệt như trong kinh đă nói), cái “huyễn” ấy là vật chất và tinh thần. Quư vị biết: Trong Phật pháp, vật chất được gọi là sắc pháp, tinh thần là tâm pháp, tinh thần là ǵ? Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức là cảm thụ trong cuộc sống hằng ngày, tức là những cảm nhận khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Những thứ này không b́nh thường, b́nh thường là chẳng có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Tâm b́nh, thanh tịnh, vĩnh viễn thanh tịnh, b́nh đẳng, tâm ấy chẳng sanh phiền năo. Phiền năo là ǵ? Khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, sanh ra những cảm thụ này, chúng là phiền năo. Tâm chẳng sanh phiền năo, sẽ sanh trí huệ, làm sao giống nhau cho được? Sanh phiền năo sẽ chẳng sanh trí huệ, sanh trí huệ bèn chẳng sanh phiền năo, nó khởi tác dụng, tác dụng viên măn. Chúng tôi nói thật thà: Tôi học nhiều năm như thế, đă đắc tâm thanh tịnh hay chưa? Chưa! Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác đều chẳng đạt được! Nhưng so với người b́nh thường để nói, tôi đạt được ít phần, tâm thanh tịnh hơn so với người b́nh phàm, v́ sao? Tôi tu tập hằng ngày, có tánh cảnh giác rất cao, v́ vậy, hằng ngày vui vẻ. Nhất là trả lời câu hỏi, trong quá tŕnh học tập, đồng học nêu câu hỏi, lúc được phỏng vấn, có rất nhiều vấn đề chẳng nghĩ đến, [nhưng câu hỏi] vừa nêu ra liền lập tức giải đáp, trí huệ đấy! Năng lực ấy do đâu mà có? Tâm tôi thanh tịnh hơn tâm họ, nên tôi có thể trả lời họ. Nếu tâm tôi chẳng thanh tịnh hơn họ, tôi sẽ chẳng trả lời được, đạo lư là như vậy đó. V́ vậy, công phu là ǵ? Tâm thanh tịnh là công phu. Tôi nêu ra: Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, đấy là công phu thật sự. Chẳng thể không dụng công, lợi ích quá nhiều!
Đặc biệt trong thời gần đây, nhất là trong hiện tại, có nhiều vấn đề nan giải, xă hội hỗn loạn, tai nạn liên tiếp xảy ra, tôi gặp rất nhiều lănh tụ tôn giáo hỏi tôi, cũng có rất nhiều người thuộc giới lănh đạo đem những vấn đề này hỏi tôi, tôi vẫn đều có thể giải đáp. Sau khi quư vị thật sự hiểu rơ, tôi đă nói nhiều lần, muốn khôi phục cục diện xă hội Trung Quốc an định, hài ḥa, chỉ cần một năm là thực hiện được rồi; giải quyết vấn đề của cả thế giới, ba năm là có thể làm được rồi! Như ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) của Anh Quốc đă nói: “[Giải quyết vấn đề của thế giới bằng] học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa Phật học”, chẳng phải lời giả, thật đấy, bản thân chúng ta phải có tín tâm. Bắt đầu làm từ ai? Làm từ chính ḿnh, đừng hy vọng ai khác. Hy vọng người khác, quư vị sẽ sanh phiền năo, trông cậy vào chính ḿnh sẽ sanh trí huệ, khác hẳn! Chính ḿnh học tốt đẹp rồi sẽ ảnh hưởng người khác, trong Phật pháp gọi chuyện ấy là “tự độ, độ tha”. Chính ḿnh độ chính ḿnh mà c̣n chưa độ được, chắc chắn chẳng thể độ kẻ khác. Người giác ngộ ngày càng nhiều, duyên sẽ từ từ chín muồi. Tôi mong các đồng học hăy có tín tâm đối với quốc gia và dân tộc, quư vị thấy hiện thời, khắp nơi trong nước, nơi đâu cũng đều thực hiện Đệ Tử Quy. Các xí nghiệp gia cũng tổ chức những luận đàn
(diễn đàn), khóa giảng về Đệ Tử Quy, đó là hiện tượng tốt đẹp....
Đối với tất cả các tôn giáo tôi được tiếp xúc, nhận thấy điều ǵ? Tôi nhận thấy các giáo chủ sáng lập tôn giáo thuở đầu, nói theo cách bây giờ, đều là những nhà giáo dục xă hội vĩ đại, họ đều theo đuổi việc dạy học. Thời gian dạy học của Thích Ca Mâu Ni Phật dài nhất, bốn mươi chín năm. Mục Hăn Mặc Đức (Mohammed) hai mươi bảy năm. Gia Tô (Jesus) bị kẻ khác hại chết, Gia Tô giảng ba năm, bị kẻ khác hại chết. Quư vị lại nh́n những người như Ma Tây (Moses) đều là dạy học. Dạy ǵ vậy? Phổ biến giáo dục, đại chúng hóa giáo dục, đều là giảng luân lư, đạo đức, nhân quả; chẳng qua trong tôn giáo của những người ấy nói đến thần, nói tới Thượng Đế, ư thần, ư Thượng Đế. Trong Phật giáo chẳng nói tới thần, chẳng nhắc đến Thượng Đế, Phật giáo nói tới tự tánh, người Trung Quốc nói tới bản tánh. Nhưng chúng ta giải thích cho họ biết: Tuy nói khác nhau, nhưng có cùng một ư nghĩa. Nhất là hiện thời họ thừa nhận: Thần chẳng có thân thể, chẳng có h́nh tướng! Nói hay lắm, ngày càng gần với ư nghĩa bản tánh như người Trung Quốc đă nói. Tôi mong các tôn giáo đều giảng giải kinh điển cặn kẽ, hướng dẫn các tín đồ của họ. Ở đây, có thể nói: Tám mươi phần trăm những điều được giảng trong các tôn giáo rất gần gũi với nhau, đều là tương đồng. Hai mươi phần trăm kia không giống nhau, đó là ǵ? Thời cổ giao thông chẳng thuận tiện, chẳng có truyền thông, người ta đến già đến chết chẳng qua lại với nhau; V́ vậy, hoàn cảnh địa phương cư trụ, bối cảnh văn hóa khác nhau, phương thức sống khác nhau, sai biệt ở chỗ này! Hiện tại th́ khác, với phương tiện giao thông hiện thời, đi quanh địa cầu một ṿng có thể thực hiện trong một ngày. Truyền thông phát triển. Hiện tại, chúng ta sống trên địa cầu, phải khẳng định người địa cầu chúng ta là người một nhà, phải tương thân tương ái, phải học khiêm hư, phải học tôn trọng, phải học hỗ trợ hợp tác, chớ nên tranh chấp, chuyện ǵ cũng đều giải quyết ḥa b́nh, thế gian này sẽ tốt đẹp lắm! Có thể làm được hay không? Có thể làm được chứ! Chẳng phải là không thể làm được! Vẫn là bắt đầu làm từ chính chúng ta, làm từ một đơn vị nhỏ là chính ḿnh, nêu gương cho người khác coi. Có một tấm gương tốt, ngay lập tức mọi người náo nức nh́n vào, ngay lập tức học theo, v́ lẽ ǵ? Mỗi cá nhân đều muốn giải quyết vấn đề này, nhưng chẳng có cách nào! Có nói th́ chẳng dễ dàng, người ta chẳng tin, họ bảo đó là chuyện lư tưởng, làm không được! Nếu nêu gương, họ sẽ tin tưởng, sẽ bắt chước theo.
Chúng ta coi đoạn văn tiếp theo: “Ma kính thật thị ma cấu” (mài gương thật ra là mài bỏ chất nhơ), mài gương là tu hành. Mài gương th́ gương có cần mài hay chăng? Do mặt gương dính những thứ ô nhiễm, bẩn thỉu, nên phải mài bỏ những thứ ấy. Do vậy, mài gương ví như nay chúng ta nói là tu hành, phải buông trần cấu xuống, buông xuống là được! V́ vậy, phải học buông xuống, chớ nên ghim trong ḷng, làm việc ǵ cũng phải nghiêm túc đảm trách, sau khi làm xong, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là tu hành thật sự. Cũng chẳng phải là nói quư vị đừng làm chuyện ǵ, chẳng gánh trách nhiệm, [nếu hiểu như vậy] th́ không được, sai lầm rồi! Đó là quư vị hiểu lệch lạc, hiểu sai giáo huấn của thánh nhân. “Kính tánh bổn minh, phi tùng ngoại đắc” (tánh gương vốn sáng, chẳng do bên ngoài mà có). Thời cổ, dùng gương làm bằng đồng; đối với tỷ dụ này, biết “gương” là cái gương bằng đồng, sẽ hiểu rất rơ rệt. Tánh chất của cái gương đồng là vốn sẵn sáng tỏ; gương vốn có tác dụng chiếu soi, chẳng phải từ bên ngoài mà có. Chỉ cần mài sạch, trừ bỏ chất bẩn trên mặt gương, quang minh sẽ hiện tiền. Đây là tỷ dụ “ĺa vọng chính là chân”, chân và vọng vĩnh viễn chẳng tách rời. Tôi thường lấy TV làm tỷ dụ cho mọi người dễ hiểu, v́ quư vị mỗi ngày đều phải xem. Tôi ví màn h́nh TV với chân tánh, h́nh ảnh trong một băng tần là vọng tướng (tướng hư vọng), đó là huyễn tướng. V́ sao? Nhà Phật nói tới chân và vọng, chân là vĩnh hằng bất biến, đó là chân; chỉ cần có biến hóa sẽ chẳng phải là chân! Quư vị thấy các h́nh ảnh trong băng tần biến động trong từng sát-na, nên chẳng phải là thật, nhưng màn h́nh vĩnh viễn chẳng động. Màn h́nh là tự tánh của chúng ta, h́nh ảnh là huyễn tướng từ trong tự tánh hiện ra. Kinh Phật gọi vũ trụ là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”, đó là huyễn tướng, đó là h́nh ảnh được hiện trong băng tần. Vọng ở chỗ nào? Vọng chẳng rời khỏi chân, chân là màn h́nh, rời khỏi màn h́nh sẽ chẳng thể hiện h́nh tướng. Chân ở đâu? Chân ở trong vọng, vọng ở trong chân, chân chẳng phải là vọng, vọng chẳng phải là chân, nhưng chân và vọng nhất thể, chẳng có cách nào tách ĺa. V́ vậy, tôi thường nói, biết xem TV, quư vị thật sự biết xem, sẽ khai ngộ! Thật sự biết xem th́ màn h́nh TV sẽ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là kinh Vô Lượng Thọ, đó là quư vị thật sự biết xem. Không biết xem, sẽ mê nơi h́nh ảnh: H́nh ảnh cười, quư vị cười theo; h́nh ảnh khóc, quư vị khóc theo, tâm quư vị hoàn toàn bị cảnh giới xoay chuyển, trật rồi! Từ các h́nh ảnh, quư vị phải nh́n ra ǵ là chân, ǵ là vọng. Sau khi đều nh́n minh bạch, chúng ta nhận biết xă hội hiện tiền và chuyện này (h́nh ảnh trên TV) chẳng khác ǵ nhau, quư vị đều hiểu rơ, đều giác ngộ. Sau đấy, quư vị sẽ biết phải xử lư ra sao, trong khi xử lư và sau khi xử lư xong, tâm thanh tịnh phải hiện tiền; đừng nên trong lúc xử lư, tâm sanh phiền năo. Hễ sanh phiền năo, sẽ có sai lầm; sanh trí huệ sẽ xử lư vô cùng viên măn. Thật sự hiểu rơ ràng, quư vị sẽ chẳng sợ chết, v́ sao? Chẳng có sanh tử! Huyễn tướng sanh diệt trong từng sát-na, linh tánh bất diệt, [giống như] màn h́nh chẳng diệt, màn h́nh mới là chính ḿnh thật sự. Huyễn tướng giống như nằm mộng, mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật. Tự tánh mới là thật, vĩnh hằng chẳng diệt, phải hiểu rơ ràng. Do vậy, ĺa vọng chính là chân. Ĺa vọng chẳng phải là thật sự bảo quư vị vứt bỏ, mà là bảo quư vị hăy hiểu rơ, trong tâm chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó là chân. Vọng là chân, chân và vọng vĩnh viễn chẳng tách rời. Chỉ cần ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước! Trong Phật pháp, người ĺa vọng tưởng sẽ thành Phật. Ĺa phân biệt, nhưng chưa ĺa vọng tưởng, đă ĺa phân biệt th́ là Bồ Tát. Vọng tưởng và phân biệt chưa ĺa, nhưng ĺa chấp trước th́ là A La Hán. Đó gọi là tu hành thật sự.
Tiếp đó là lời tổng kết của đoạn này: “Cố vân, bất dụng cầu chân, duy tu tức Kiến” (V́ thế nói: “Chẳng cần cầu chân, chỉ cần dứt Kiến”). V́ sao không cần cầu chân? Chân ở ngay trước mặt, chân vĩnh viễn không thay đổi, quư vị cầu chân là trật rồi, v́ sao? Quư vị khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thấy chân tướng; v́ vậy, chớ nên cầu chân! Trong chân tánh có trí huệ viên măn, đức năng viên măn, tướng hảo viên măn, điều ǵ cũng không thiếu, toàn thể vũ trụ do chân tâm biến hiện, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng ĺa tự tánh. V́ vậy, chỉ cần “tức Kiến” (dứt Kiến), Kiến là ǵ? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Cụ Hoàng dùng một chữ Kiến rất hay. V́ sao? Khởi đầu từ chỗ này, Kiến là Kiến Hoặc, chúng ta thấy sai lầm. Đầu tiên là thấy sai, coi thân thể này là Ngă. Đó là cái thấy sai lầm đầu tiên. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă nói: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, đấy chính là dứt Kiến. Có ta, người, chúng sanh, thọ giả hay chăng? Có, đều ở trước mặt. Cách dứt như thế nào? Chẳng chấp trước là dứt, đừng nên coi những thứ này là có thật; biết chúng là có, tuy chúng có, nhưng là huyễn có, chẳng thật! V́ sao? Sanh diệt trong từng sát-na, chẳng trụ. “Trụ” là ngưng nghỉ, chúng
[biến hóa] chẳng ngưng nghỉ, chẳng ngừng trong một sát-na nào! V́ sao chẳng ngừng? Ư niệm của quư vị sanh diệt chẳng ngừng. Nếu niệm sanh diệt ngưng nghỉ th́ tốt lắm, không chỉ là mười pháp giới chẳng có, mà cơi Thật Báo cũng chẳng có. Niệm ngưng nghỉ th́ cảnh giới ǵ xuất hiện? Thường Tịch Quang xuất hiện, đó là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, điều này chẳng dễ ǵ làm được. V́ vậy, chúng ta nỗ lực thực hiện từ chỗ cơ bản nhất: Chớ nên chấp trước thân là ta, quư vị sẽ thấy thấu suốt cái ải sanh tử này, sẽ chẳng tham sống, sợ chết, sống ở thế gian này tùy duyên, quư vị thấy tự tại lắm, chẳng có chấp trước! Quư vị hiểu rơ: Sau khi bỏ thân này, sẽ đạt được cái thân khác chắc chắn tốt đẹp hơn cái thân này, v́ sao? Quư vị chẳng mê hoặc. Giống như mặc quần áo, bộ quần áo này ta mặc bẩn rồi, cởi ra, thay bộ khác, chắc chắn thay một bộ sạch sẽ hơn, mới hơn, đáng ưa hơn, chẳng phải là đạo lư ấy hay sao? Chẳng có mảy may bi thương, [do hiểu] rơ ràng, rành rẽ. Mê hoặc, điên đảo sẽ phiền phức lớn. Khi ra đi mê hoặc, điên đảo, sẽ bị nghiệp lực biến đổi, tự ḿnh chẳng thể làm chủ. Nghiệp lực là ǵ? Thiện nghiệp sẽ vào trong ba thiện đạo, ác nghiệp sẽ vào tam ác đạo, chính quư vị chẳng thể làm chủ được! Khi [lâm chung, thần trí] sáng suốt, chính ḿnh sẽ làm chủ. V́ vậy, người lúc mất chớ nên mê hoặc, điên đảo, nhất định phải là tỉnh táo, sáng suốt, chắc chắn người ấy sẽ chẳng đọa trong ác đạo. “Tức Kiến” là từ Kiến Hoặc mà đoạn; đoạn hết Kiến Hoặc,
người ấy sẽ chứng quả Tu Đà Hoàn, đấy là Tiểu Thừa Sơ Quả. Trong Đại Thừa là địa vị Sơ Tín Bồ Tát như kinh Hoa Nghiêm đă dạy.
Tuy địa vị rất thấp, nhưng thật sự là thánh nhân, đă đặt vững cơ sở. Tuy chưa thoát khỏi lục đạo, nhưng trong lục đạo, chỗ vị ấy tu hành là nhân gian hay trên cơi trời, tuyệt đối chẳng đọa tam đồ. V́ vậy, địa vị này được gọi là đắc Vị Bất Thoái, [tức là] địa vị đă chứng đắc tuyệt đối chẳng thoái chuyển. Nhà Phật nói tới ba thứ Bất Thoái, người ấy đă đạt được món đầu tiên. Tốc độ nâng cao cảnh giới sẽ khác nhau, tùy thuộc người ấy dụng công siêng hay lười! Dụng công siêng năng, nhanh chóng tiến cao hơn; dụng công rề rà, sẽ tiến lên cao chậm chạp, nhưng chắc chắn là tiến cao hơn, chẳng lui sụt. V́ vậy, ở đây là “duy tu tức Kiến” (chỉ cần dứt Kiến), dùng hai chữ “tức Kiến” hay lắm! Chúng ta phải có cái nh́n chính xác, chớ nên có cái nh́n sai lầm!
“Chúng sanh chi kiến, giai vọng kiến dă” (cái thấy của chúng sanh đều là vọng kiến). Câu này do đức Phật nói, trong kinh Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, đức Phật thường nói “phàm phu tri kiến”. Vọng kiến là ǵ? Thấy sai chân tướng sự thật, “vọng kiến” mang ư nghĩa này, thấy trật rồi! V́ sao thấy trật? V́ quư vị có phiền năo, tập khí. Tập khí phiền năo là bẩm sinh, chẳng do học được, đă mang theo từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, những thứ ǵ vậy? Tham, sân, si, mạn, nghi. Quư vị thấy trật, nh́n sai vấn đề, là v́ có những thứ ấy, cho nên mới tự tư tự lợi, tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần, mới thường khởi phiền năo tham, sân, si, mạn, xuất hiện những vấn đề này. Nếu quư vị thấy rơ chân tướng sự thật, bổn tánh “bổn thiện” là thật, vĩnh hằng bất diệt. Hết thảy những thứ trong ấy tuy chẳng có, [tức là] trong tự tánh chẳng có tinh thần, chẳng có vật chất, nhưng tự tánh có thể sanh, có thể hiện; hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần đều nương vào nó mà hiện, đấy là tự tánh. Chúng sanh đông đảo trong mười pháp giới khác biệt, nhưng tự tánh giống hệt, là nhất thể, đều do từ tự tánh biến hiện ra. Chuyện này Lư rất sâu, Sự rất phức tạp, vô lượng nhân duyên rắc rối phức tạp, nhưng kinh Phật đă giảng rơ ràng, minh bạch. Quư vị học Pháp Tướng Duy Thức, nói chung cũng phải mất hai mươi hay ba mươi năm, mới hiểu rơ ràng đầu mối của chuyện này, sẽ hoảng nhiên đại ngộ. Trong tông Duy Thức, họ không nói “đại ngộ”, mà bảo là “đại khai viên giải”, tức là lư giải viên măn. Trong Thiền Tông, trong Tánh Tông là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”; Giáo Hạ gọi là “đại khai viên giải”, cảnh giới hoàn toàn tương đồng, nhưng dùng phương pháp khác nhau. Tịnh Độ Tông vẫn là cảnh giới này, nhưng danh từ lại khác! Tịnh Độ Tông gọi là “nhất tâm bất loạn”, chia ra Sự nhất tâm, Lư nhất tâm, và công phu thành phiến, ba tầng cấp ấy! Lư nhất tâm có cùng cảnh giới với đại khai viên giải và đại triệt đại ngộ, đều là vượt thoát mười pháp giới. Sự nhất tâm bất loạn là tứ thánh pháp giới, tức là tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới, vượt thoát lục đạo luân hồi. Nhưng bất luận học pháp môn hay tông phái nào, nếu chưa đạt được cảnh giới này, sẽ chẳng có cách nào vượt thoát luân hồi, không gọi là thành tựu, cũng giống như chúng ta đi học mà chẳng có học vị! Phải có năng lực vượt thoát lục đạo luân hồi th́ mới đạt được học vị đầu tiên, giống như chúng ta đi học, tốt nghiệp đại học giành được học vị Học Sĩ (Cử Nhân), phải hiểu điều này. Nhưng gặp được Tịnh Độ th́ lại khác, chẳng có học vị vẫn có thể đến thế giới Cực Lạc, đấy là điều được nói trong bộ kinh này. Do vậy, bộ kinh này có thể đại diện cho hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, v́ làm Phật chẳng có chi khác, Phật mong giúp cho quư vị vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới. Pháp môn này quá thù thắng, thù thắng khôn sánh, chẳng cần đoạn phiền năo cũng được. Hễ có thể khống chế phiền năo, đè nén chúng, không cho chúng phát tác, có năng lực này là được rồi! Nhưng trong các pháp môn khác, có năng lực này vẫn chưa được, phải là đoạn hết th́ mới được, khuất phục phiền năo th́ chưa được, c̣n trong pháp môn [Tịnh Độ] này, hễ khuất phục phiền năo đă có thể thành tựu rồi!
Sau khi ĺa vọng, chân sẽ hiện tiền. “Chân giả, Phật tri kiến dă” (Chân là tri kiến Phật), Phật tri, Phật kiến. Phật là ai? Là chính ḿnh, là trí huệ vốn sẵn có trong tự tánh hiện tiền. V́ vậy, trí huệ chẳng do học được, trí huệ phải từ tâm thanh tịnh mà có, trí huệ từ Định mà có. Tri thức có thể học được. Lần trước, lúc tôi giảng diễn tại đại học Kiếm Kiều (Cambridge), đă bàn đến vấn đề này, tôi nói điều mà các đồng học đang học chính là tri thức, chẳng phải là trí huệ. Ba nhà Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc đều nói tới trí huệ, đều đ̣i hỏi trí huệ. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, chẳng để lại hậu quả. Tri thức giải quyết vấn đề hạn chế, chẳng viên măn, để lại hậu quả, chẳng thể không biết điều này! Do vậy, Chân là trí huệ viên măn trong chân tánh hiện tiền. Thời gian trôi qua rất nhanh, đă hết hai tiếng đồng hồ rồi. Ngày hôm nay chúng ta học tới đây, cám ơn mọi người!
Tập 20
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười chín, hàng thứ hai. Chúng ta đọc một đoạn kinh văn: “Hựu Yếu Giải vân: Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian; phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai; phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên; phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp. Mịch chi liễu bất khả đắc, bất khả ngôn kỳ vô; cụ tạo bách giới thiên như, bất khả ngôn kỳ hữu. Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử biệt hữu tự tánh” (Lại nữa, sách Yếu Giải nói: “Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tṛn, chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc, chẳng phải pháp, t́m trọn chẳng thể được, chẳng thể nói nó là không; tạo đủ bách giới thiên như, chẳng thể nói nó là có. Ĺa hết thảy duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, tướng văn tự, nhưng duyên lự, phân biệt, ngôn ngữ, văn tự chẳng ĺa điều này mà có riêng tự tánh được”), chúng ta xem tới đoạn này. Cụ Hoàng Niệm Tổ trong phần Bổn Kinh Thể Tánh đă dẫn một đoạn từ sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư. V́ kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ thuộc cùng một bộ, cổ nhân gọi [hai kinh ấy] là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Đại Bổn, kinh Di Đà gọi là Tiểu Bổn, nhưng thể tánh để y cứ [của hai kinh] hoàn toàn tương đồng. Nói thật ra, hết thảy các kinh Đại Thừa đều có cùng một thể tánh, thể tánh ấy gọi là Thật Tướng. Chúng ta cũng có thể nói như thế này: Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nói hết thảy các kinh trong bốn mươi chín năm đă dựa vào đâu? Nương vào đâu để nói? Một câu: “Chư pháp Thật Tướng”, tức là chân tướng của hết thảy các pháp, dựa vào đây để nói. Chúng ta lại hỏi một câu: Hết thảy các kinh đă nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng những ǵ? Dùng một câu để trả lời, vẫn là một câu này: “Chư pháp Thật Tướng”! Hết thảy các kinh đă nói trong bốn mươi chín năm nhằm giảng cho chúng ta chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, một câu bèn nói minh bạch. Kinh Bát Nhă thường nói “chư pháp Thật Tướng”, bốn chữ này hay lắm! Ở đây, Ngẫu Ích đại sư đă giảng “chư pháp Thật Tướng” là như thế nào? Đoạn này nhằm miêu tả h́nh trạng của nó.
Điều khó hiểu là một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta; câu này hết sức khó hiểu! “Hiện tiền” là chính ngay trong lúc ấy, “nhất niệm” đă chẳng dễ hiểu rồi! B́nh thường, chúng ta khởi tâm động niệm, niệm ấy rất thô, ở đây nói tới “niệm vi tế”, niệm vô cùng vi tế, chúng ta phải hiểu rơ điều này! Chẳng phải là thô niệm như chúng ta đang khởi tâm động niệm trong hiện tại. Trong Bồ Tát Xử Thai Kinh có một đoạn nói đức Thế Tôn đối trước Di Lặc Bồ Tát giảng giải: “Phật vấn Di Lặc, tâm hữu sở niệm” (đức Phật hỏi ngài Di Lặc, tâm có bao nhiêu niệm). Đấy là phàm phu chúng ta, tâm khởi lên một niệm, trong thời gian rất ngắn ngủi, tạm bợ, bèn dấy lên một niệm. Trong một niệm ấy, có mấy niệm, có mấy tướng, có mấy thức? Hỏi điều này chúng ta sẽ biết: Phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, trong một niệm ấy có bao nhiêu [tế] niệm, khiến cho chúng ta nhận biết có một niệm dấy lên, có bao nhiêu niệm? Tướng là hiện tượng vật chất, Thức là hiện tượng tinh thần. Tôi nghĩ rất nhiều người trong quư vị đều từng niệm Tâm Kinh; Tâm Kinh nói tới Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đức Phật hỏi “mấy tướng”, th́ đó là Sắc, tức sắc tướng, đây là một phần vật chất. “Mấy thức?” là nói về Thọ, Tưởng, Hành, Thức ở sau [Thức], có bao nhiêu Thọ, Tưởng, Hành, Thức? Di Lặc Bồ Tát đáp lời hỏi của Thích Ca Mâu Ni Phật: “Nhất đàn chỉ” (một cái khảy ngón tay), nói theo phía chúng ta, thời gian khảy ngón tay là một niệm, tức là trong tâm có một niệm. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, đại khái là một giây. Chúng ta khảy nhanh, trong một giây có thể khảy từ bốn lần tới năm lần. Nói cách khác, trong một giây chúng ta có chừng bốn tới năm niệm, đây là điều chúng ta có thể cảm giác được! Bồ Tát nói trong một cái khảy ngón tay, có bao nhiêu tế niệm? Chúng ta không có cách nào tưởng tượng được! Ngài nói “ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, trăm ngàn là đơn vị, trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn, quư vị thấy một cái khảy ngón tay [là như thế đó]! Phàm phu chúng ta cảm giác đó là một niệm, nhưng trong một cái khảy ngón tay có nhiều niệm như thế!
Tôi tin tưởng đức Phật nói lời chân thật, [điều này] khiến cho chúng tôi nghĩ đến lời Thế Tôn đă nói trong kinh Nhân Vương, đó là nói phương tiện, chẳng phải là chân tướng sự thật, mà là nói phương tiện. Trong kinh Nhân Vương, đức Phật nói một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na có chín trăm lần sanh diệt, giảm rất nhiều! T́m Di Lặc Bồ Tát để hỏi, Di Lặc Bồ Tát là chuyên gia Duy Thức, nói như bây giờ, Ngài là chuyên gia tâm lư học trong Phật giáo, chuyên môn giảng tâm lư học, lời Ngài nói nhất định là sự thật, chẳng phải là nói phương tiện, mà là nói chân thật. Một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; chúng ta lấy ba mươi hai ức nhân với mười vạn, tức là nhân với một trăm ngàn, thành ba trăm hai mươi triệu. Trong một khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu niệm, [như vậy là] có bao nhiêu hiện tượng vật chất? Bồ Tát nói: “Niệm niệm thành h́nh”, trong mỗi niệm đều có hiện tượng vật chất; “h́nh đều có thức”, trong mỗi hiện tượng vật chất đều có hiện tượng tinh thần, cũng là Ngũ Uẩn trọn đủ, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Ngũ Uẩn trọn đủ! Ngũ Uẩn là cơ sở, căn bản của hết thảy các pháp, giống như nay chúng ta nói tới nguyên tử, điện tử, lạp tử cơ bản, nhục nhăn chẳng nh́n thấy những cơ sở vật chất hết sức vi tế ấy. Ngài nói vật chất và tinh thần đồng thời phát sanh; lại c̣n chẳng tách rời, trong vật chất có tinh thần, trong tinh thần có vật chất. Nếu trong tinh thần chẳng có vật chất, t́m không ra, th́ trong vật chất chẳng có tinh thần, cũng t́m không được, v́ sao? Chúng đồng thời phát sanh, chắc chắn chẳng thể phân cách, chúng là một Thể.
Gần đây, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă dùng thời gian mười mấy năm, phải biết đến năm nay đă là mười hai năm, hay mười ba năm, nghiên cứu nước, phát hiện nước có đủ Ngũ Uẩn, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trọn đủ. Nước là một vật thể, là hiện tượng vật chất, hơn nữa là khoáng vật. Chúng ta nói khoáng vật, chẳng phải là sinh vật, phát hiện nước có thể thấy, nghe, hiểu ư con người, chúng ta khởi tâm động niệm nó đều biết; thiện niệm hay ác niệm nước đều hiểu toàn bộ. Những điều này đều được trắc nghiệm, thí nghiệm mười mấy năm, chẳng sai chạy mảy may! Quư vị thấy trong hiện tượng vật chất lại có hiện tượng tinh thần. Hơn nữa, chúng ta phải biết: Một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu niệm, [những niệm ấy] là tế niệm. Lúc chúng ta dấy lên một niệm vi tế, trong một sát-na có nhiều tế niệm dường ấy! Mỗi niệm đều sanh ra hiện tượng vật chất, trong mỗi hiện tượng vật chất đều trọn đủ hiện tượng tinh thần. Hôm nay có một đồng học cho tôi biết: Ông ta hạ tải (download) từ Internet [một văn bản, theo đó], một khoa học gia của Mỹ đă tiến hơn nữa, phát hiện nước có năng lực kư ức, điều này cũng được các khoa học gia chứng thực. Nước không chỉ có thể thấy, nghe, hiểu được ư tưởng của con người, mà c̣n có thể ghi nhớ. Điều này hoàn toàn tương ứng với những điều được giảng trong kinh Phật: Một hiện tượng vật chất dù nhỏ đến mấy đi nữa, nói theo danh từ trong kinh Phật là “vi trần”, nói theo khoa học hiện thời là lạp tử cơ bản, nhục nhăn không thấy được, vẫn trọn đủ hết thảy các thông tin viên măn trong vũ trụ.
Kinh thường nói: “Giới tử nạp Tu Di, Tu Di nạp giới tử” (hạt cải bỏ vào núi Tu Di, Tu Di bỏ vào trong hạt cải), đây là nói lớn và nhỏ chẳng hai! Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần có thế giới, thế giới trong vi trần và thế giới bên ngoài to như nhau, trong thế giới ấy lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận. V́ sao có hiện tượng này? Ở đây, Ngẫu Ích đại sư cũng giải thích rất tuyệt, v́ điều này thuộc về tự tánh, tự tánh có công đức viên măn. Trong tự tánh chẳng có lớn hay nhỏ; v́ vậy, trong nhỏ có thể hiện lớn, trong lớn có thể hiện nhỏ, chẳng có lớn hay nhỏ, tự tại vô ngại. Trong tự tánh chẳng có thời gian, chẳng có quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng chẳng có không gian, không gian là khoảng cách, chẳng có! Kinh Di Đà nói thế giới Cực Lạc cách đây mười vạn ức cơi Phật, trong tự tánh “đương hạ tức thị” (ngay nơi đây chính là). Điều này rất khó hiểu, nó là một sự thật rất khó hiểu, đấy là Thật Tướng, Thật Tướng của các pháp là như thế đó. V́ vậy, sách Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán là do Hiền Thủ quốc sư đă hoàn toàn căn cứ trên giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm để viết thành bài luận văn ấy. Bài luận văn ấy chẳng dài, nhưng đă thật sự giảng viên măn rốt ráo vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đại Thừa. Vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Do tự tánh biến hiện!
Trong Đàn Kinh, Huệ Năng đại sư đă giảng rất hay, Ngài kiến tánh, thưa bày với thầy là Ngũ Tổ Nhẫn ḥa thượng. Quư vị phải biết: Huệ Năng đại sư không biết chữ, chưa hề học hành. Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Ngài, chắc chắn là giảng đại ư kinh Kim Cang, nửa đêm canh ba trong Phương Trượng Thất, chúng tôi phỏng đoán thời gian nhiều nhất là hai giờ. Giảng tới câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên đừng trụ vào đâu để sanh tâm), Ngài bèn hoảng nhiên đại ngộ, trong Thiền Tông gọi [sự hoảng nhiên đại ngộ ấy] là minh tâm kiến tánh. Kiến tánh là như thế nào? Ngài báo cáo rất đơn giản, năm câu: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh), điều này trọng yếu. Cũng có nghĩa là nói:
Tự tánh là chân tâm, có thể hiện, có thể sanh (năng hiện, năng sanh); vạn vật, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là sở hiện sở sanh (cái được hiện, cái được sanh). Chân tâm có thể hiện, có thể sanh, vĩnh viễn thanh tịnh. Câu thứ hai, Ngài nói: “Bổn bất sanh diệt” (vốn chẳng sanh diệt), tự tánh là cái Ta chân thật, tức là cái mà trong Tông Môn gọi là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), đó là Chân Ngă. Thân này là giả ngă, chẳng phải là Ngă, vốn chẳng sanh diệt! Câu thứ ba là “bổn tự cụ túc” (vốn tự trọn đủ), nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ. Trọn đủ là ǵ? Chẳng có mảy may khiếm khuyết. Dùng một câu trong kinh Hoa Nghiêm để giải thích th́ như trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, đấy là vốn tự trọn đủ. V́ vậy, trí huệ sẵn có trong tự tánh, quư vị và hết thảy chư Phật Như Lai chẳng khác nhau; “đức” là đức năng, là đức hạnh, cũng chẳng khác nhau; tướng hảo cũng chẳng khác nhau. Câu này chính là phân nửa của tựa đề kinh này: “Đại Thừa” là trí huệ, “Vô Lượng Thọ” là đức, “Trang Nghiêm” là tướng hảo, hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, trọn đủ! Chẳng phải cầu từ bên ngoài, hễ quư vị kiến tánh sẽ đạt được. Huệ Năng đại sư trọn chẳng nói lời hư giả với chúng ta. Câu thứ tư là: “Bổn vô dao động” (vốn chẳng dao động), đây là tự tánh vốn định, chẳng phải do tu thành. Câu cuối cùng là: “Năng sanh vạn pháp” (có thể sanh ra vạn pháp). V́ vậy, nói tới đức hạnh và tự thể của chính ḿnh là bốn câu trước, câu cuối cùng là nói tới tác dụng, đức dụng, có thể sanh ra vạn pháp.
Sanh ra vạn pháp như thế nào? Nhất niệm dấy lên. Nhất niệm ấy chẳng có nguyên nhân. Trong giáo pháp Đại Thừa gọi nhất niệm ấy là vô minh, tức là “vô thỉ vô minh”. Vô minh là động, một niệm ấy dấy động. Hễ động, nó bèn hiện tướng, hiện tướng ǵ? Hễ động, A Lại Da bèn hiện ra; bất động, chẳng có A Lại Da (A Lại Da là vọng tâm), [bất động là] chân tâm! Vừa động, chân tâm liền biến thành A Lại Da. Quư vị phải biết: Câu này rất khó giảng, lúc mọi người nghe nói phải nghe ra ư nghĩa của nó, đừng hiểu lầm nơi mặt ngôn ngữ. Chân tâm bất động, nó vốn chẳng dao động, làm sao nó động được? Động, nhưng [sự động ấy] chẳng phải là thật. Quư vị hiểu sự
“động” ấy chẳng phải là thật, nó nương theo y tự tánh mà dấy lên một hiện tượng, hiện tượng ấy gọi là A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm, vọng tâm nương vào chân tâm mà dấy lên, chẳng phải là chân tâm. Một niệm tối sơ ấy chẳng có khởi đầu, v́ sao? Ngay chính khi đó, chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai! Quư vị thấy một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu niệm, mỗi niệm đều là ngay lập tức. Hiện tượng này, nói thật ra là một thứ “tương tự tương tục tướng” (tướng gần giống như liên tục). Đúng như chúng ta thấy trong điện ảnh, điện ảnh trước kia, chứ không phải hiện thời, hiện thời họ dùng kỹ thuật mă hóa (digitalized), chẳng dễ ǵ nh́n ra được. Trước kia dùng cuộn phim nhựa. Phim nhựa là phim được soi bằng đèn chiếu lên từng tấm một. Tốc độ chiếu phim là hai mươi bốn tấm trong một giây, mỗi một tấm phim đều khác nhau, từng tấm độc lập, chẳng giống nhau. V́ vậy, nó là tương tự; chúng ta nói là “đại đồng, tiểu dị”, tương tự, tướng gần giống như liên tục. Trong một giây, sanh diệt hai mươi bốn lần, lừa dối khiến chúng ta thấy nó giống như thật. C̣n đối với hiện tượng trong hiện tiền, trong một giây là bao nhiêu tấm, bao nhiêu lần? Nếu [một giây] khảy ngón tay bốn lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám mươi triệu; nếu khảy ngón tay năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. V́ vậy, dùng phim ảnh để nói th́ [trong một giây sẽ có] một ngàn sáu trăm triệu [tấm phim được chiếu ra], chúng ta làm sao biết nó là giả cho được? Huyễn tướng mà!
Tâm tánh, thưa quư vị, chính là Tánh trong “minh tâm kiến tánh”. Tánh chẳng có trong, ngoài, cũng chẳng ở giữa, trong, ngoài, trung gian đều ở trong tánh, chẳng ĺa khỏi tánh, chẳng rời khỏi tự tánh. Chẳng phải là quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Đấy là chẳng có thời gian, c̣n những điều trong phần trên (chẳng có trong, ngoài, cũng chẳng ở giữa) tức là chẳng có không gian. Nó chẳng có h́nh tướng, chẳng có sắc tướng, dài, ngắn, vuông, tṛn là h́nh tướng, cái ǵ cũng chẳng phải! T́m chẳng thể được, thật đấy! V́ sao? Sáu căn chẳng duyên được, mắt nh́n chẳng thấy nó, tai chẳng nghe được nó, tâm nghĩ chẳng ra. Tâm tưởng là thức thứ sáu, tức ư thức. Công năng của thức thứ sáu (ư thức) rất lớn, đối nội bèn có thể duyên đến A Lại Da, đối ngoại nó có thể duyên tới hư không pháp giới, nhưng chẳng duyên được tự tánh, v́ sao? Nó là vọng tâm, vọng tâm chẳng thấy chân tâm. V́ vậy, t́m chẳng thể được. Quư vị chẳng thể nói nó là không, v́ nó có thể hiện tướng, nó hiện ra ǵ vậy? Tạo đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói nó là có. Nó có thể biến hiện bách giới thiên như, nay chúng ta nói là “vũ trụ, vạn vật”. Vũ trụ vạn vật do nó sanh ra, nhưng quư vị chẳng thể nói vũ trụ vạn vật là có! V́ sao chẳng thể nói nó là có? Quư vị phải hiểu duyên khởi của nó, nó là hiện tượng tích lũy trong từng niệm một, giống như chúng ta coi phim, hoặc giống như nh́n vào h́nh ảnh trên màn h́nh [TV, hoặc computer], thấy dường như là có, nhưng trên thực tế, chúng chẳng có, sanh diệt trong sát-na. Phải hiểu “sát-na” thật sự là ba trăm hai mươi triệu lần sanh diệt trong một cái khảy ngón tay. Do sanh diệt quá nhanh, nhanh đến nỗi không cách nào tưởng tượng, nên sanh diệt là chẳng sanh diệt. Câu này có ư nghĩa rất sâu. Nếu thật sự chẳng có sanh diệt, nói “sanh diệt là chẳng sanh diệt”, há phải là lời lẽ thừa thăi ư? Quả thật có sanh diệt, nhưng sanh diệt quá nhanh. Không chỉ năng lực sáu căn của chúng ta chẳng có cách nào thấy được sự sanh diệt này, mà sáu thức của chúng ta tư duy, tưởng tượng nó cũng nghĩ không ra, tốc độ quá nhanh, lục căn, lục thức đều do nó biến hiện. Phải như thế nào th́ mới có thể thấy? Chúng ta buông lục căn và lục thức xuống, tự nhiên nó sẽ hiện tiền. V́ vậy, nếu chúng ta hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ dưới cội Bồ Đề là như thế nào ư? Trong Phương Trượng Thất, Huệ Năng đại sư nghe giảng kinh Kim Cang khai ngộ như thế nào? Chẳng có ǵ khác! Giáo pháp Đại Thừa dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, bèn khai ngộ. Những thứ này và cương lănh tu hành yêu cầu trong Tông Môn có cùng một ư nghĩa, tu hành trong Tông Môn đ̣i hỏi người ta phải ĺa tâm ư thức để tham, tức Tham Thiền. Tham là như thế nào? Ĺa tâm ư thức mới gọi là tham; dùng tâm ư thức th́ gọi là nghiên cứu. Dùng tâm ư thức để tu học Phật pháp là Phật học; ĺa tâm ư thức th́ quư vị thật sự học Phật, v́ sao? Quư vị thành Phật. Tâm là ǵ? Tâm là A Lại Da. Nghiệp Tướng trong ba tế tướng của A Lại Da gọi là tâm; Mạt Na là chấp trước, tứ đại phiền năo thường nương theo, đó là chấp trước; ư thức là phân biệt. Ĺa tâm ư thức là ǵ? Ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; ĺa sạch sành sanh, tự tánh bèn hiện tiền.
Hiện thời chúng ta đă hiểu đạo lư này, đă hiểu như thế nào? Đă hiểu gọi là giải ngộ, nhưng chưa có cách nào chứng đắc. Chứng đắc mới hữu dụng, giải ngộ vẫn chưa hữu dụng. Lúc chứng đắc gọi là chứng ngộ, quư vị thật sự buông xuống, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Họ (người đă chứng ngộ) rất lợi hại, đốn xả, đốn ngộ, ngay lập tức buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Phàm phu thành Phật trong một niệm; buông một niệm xuống, rất lợi hại! Qua kinh giáo, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật là như vậy, đó là “căn tánh viên đốn”. Chúng ta thấy Huệ Năng đại sư vào thời Đường tại Trung Quốc cũng là đốn ngộ, đốn xả. Vấn đề là quư vị có chịu buông xuống hay không? Chẳng chịu buông xuống là giải ngộ, buông xuống là chứng ngộ. Nay chúng ta là giải ngộ, huân tập trong giáo pháp Đại Thừa nhiều năm như thế, chúng ta thừa nhận, chẳng hoài nghi tí nào, chúng ta cũng có thể được gọi là căn tánh Đại Thừa trung thượng. Quư vị đă hiểu rơ, minh bạch chân tướng sự thật, chẳng hoài nghi, chẳng buông xuống. Cổ nhân nói: “Ngộ hậu khởi tu” (sau khi ngộ sẽ bắt đầu
tu), nay quư vị phải làm ǵ? Buông xuống. Buông xuống như thế nào? Lúc ăn cơm, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống; lúc mặc quần áo, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống; lúc làm việc cũng như thế; xử sự, đăi người, tiếp vật cũng như thế, quư vị bèn thành công, đó gọi là tu hành thật sự!
Đốn xả khó lắm, Phật, Bồ Tát có phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta tiệm tu (tu từ từ), từ từ buông xuống. Phải thật sự đoạn trừ tập khí phiền năo, “đoạn” (斷) là buông xuống; do vậy, buông xuống là được! Lúc ăn cơm, chớ nên kén chọn, tùy duyên mà chẳng phan duyên, đó gọi là công phu, tu hành. Theo như kinh giáo đă dạy: Trước tiên là buông Thân Kiến xuống, kinh điển dạy chúng ta điều này. Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là chấp trước thân này là ta, có chấp trước ấy là do có tự tư tự lợi nên bèn có tham, sân, si, mạn. Lời đức Phật nói là thật, đầu tiên, quư vị phải thấy thấu suốt thân chẳng phải là ta, cái ǵ là ta? Tự tánh là ta. Vạn hữu trong vũ trụ do tự tánh biến, tự tánh là ta, hết thảy các pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do tự tánh biến. Nếu thật sự hiểu rơ ràng y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới và chính ḿnh là nhất thể, thứ nào chẳng phải là ta? Đông đảo chúng sanh là ta, hoa, cỏ, cây cối là ta, núi, sông, đại địa là ta, khắp pháp giới hư không giới là ta, chúc mừng quư vị, quư vị đă chứng đắc Pháp Thân, đó gọi là Pháp Thân. Thân đó và chính ḿnh cùng một Thể, là một, chẳng hai! V́ sao? Tự tánh biến. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, A Lại Da Thức có thể biến, cái được hiện được sanh là hết thảy vạn pháp thiên biến vạn hóa, cái thiên biến vạn hóa là ǵ? Là A Lại Da, thức có thể biến. Tánh có thể sanh, có thể hiện; thức có thể biến, nhất thể! Dùng ngôn ngữ Trung Quốc để
nói th́ là luân lư, đây là luân lư Phật pháp, luân lư Đại Thừa. Luân lư là nói tới quan hệ, trọn hết hư không khắp pháp giới là chính ḿnh. Quư vị nói quan hệ này có mật thiết lắm hay không!
V́ vậy, chỉ cần quư vị kiến tánh, ḷng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi, gọi là đại từ đại bi. “Vô Duyên Đại Từ, Đồng Thể Đại Bi” hiện tiền. Hễ hiện tiền, quư vị sẽ tự nhiên giống như chư Phật, Bồ Tát, phải phổ độ chúng sanh. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, quư vị làm chuyện này, giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ. Đặc biệt là chúng sanh trong lục đạo đang mê, mê quá sâu, chẳng liễu giải chân tướng sự thật, tự cho ḿnh là đúng. V́ vậy, người giác ngộ nhất định sẽ giúp đỡ những kẻ chưa giác ngộ. Quư vị đoạn phiền năo, học pháp môn, thành Phật đạo, những điều đó đều là biểu diễn tuồng cho họ xem, giúp họ giác ngộ. Pháp môn: “Pháp” là phương pháp, “môn” là môn đạo (門道: đường nẻo), vô lượng vô biên! Quư vị đă khai trí huệ hoàn toàn, khéo dùng những pháp môn và phương tiện thiện xảo ấy giúp chúng sanh giác ngộ. Thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài đă v́ chúng ta biểu diễn phương pháp này, biểu diễn hết sức sống động. Sau khi chúng ta hiểu rơ, bèn bội phục năm vóc sát đất. Do vậy, Phật pháp là ǵ? Quư vị phải hiểu điều này! Phật pháp là giáo học, Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi khai ngộ liền bắt đầu dạy học, dạy suốt cả đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch; kinh chép “giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm”. Ngài mang thân phận ǵ? Chúng ta hiểu rất rơ ràng, nói theo cách bây giờ là mang chức nghiệp của một vị thầy! Ngài dạy những ǵ? Dạy Thật Tướng của các pháp, chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Dựa vào điều này [để thuyết pháp], mà [thuyết pháp] cũng là để dạy điều này.
Thật sự hiểu rơ chân tướng vũ trụ, chắc chắn quư vị sẽ chẳng làm chuyện sai quấy, chắc chắn sẽ chẳng tạo nghiệp. Người hồ đồ tạo nghiệp, do mê hoặc nên tạo nghiệp, người giác ngộ chẳng tạo nghiệp. Tuy giúp đỡ hết thảy chúng sanh, giúp họ phá mê khai ngộ; phá mê khai ngộ là nhân, ĺa khổ được sướng là quả. Khổ do đâu mà có? Khổ do mê mà có; mê đă phá, khổ sẽ chẳng c̣n. Vui sướng do đâu mà có? Vui sướng là giác ngộ, giác ngộ bèn vui sướng, pháp hỷ sung măn, do ngộ sẽ được vui sướng. Muốn giúp chúng sanh ĺa khổ được vui sướng, dùng phương pháp ǵ? Dùng phá mê khai ngộ. Dùng phương pháp ǵ để phá mê khai ngộ? Dạy học bằng thân hành, ngôn giáo! Đức Phật thị hiện, những ǵ Ngài đă giảng đều biểu diễn toàn vẹn cho quư vị thấy. Quư vị thấy Ngài chẳng chấp trước món ăn, lần lượt đi xin từng nhà, người ta cho ǵ ăn nấy, đều hoan hỷ, chẳng kén chọn, chẳng hề! Thường Tùy Chúng của đức Phật là một ngàn hai trăm năm mươi lăm người, mỗi ngày ra ngoài khất thực, chẳng phải là xin xong sẽ tự ḿnh ăn, chẳng thể vậy! Sau khi xin
xong trở về, bèn để chung [những món xin được vào] một chỗ, thảy đều dồn chung lại, sau đấy, chính ḿnh lại lấy từ đó ra. V́ thế nói: “Nhất bát thiên gia phạn” (Một bát, cơm ngàn nhà), quư vị ăn một bát cơm đúng là xin từ một ngàn nhà bên ngoài, dồn chung lại, trộn lẫn rồi lại chia ra, đó là “lợi ḥa đồng quân”. Chẳng phải là quư vị xin được món ăn ngon th́ hôm nay sẽ ăn ngon lành lắm, kẻ khác chẳng xin được món ngon, sẽ chẳng được nếm món ngon, mà là trộn chung với nhau!
Đức Phật biểu diễn cho chúng ta thấy, nay chúng ta biết: Một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị đệ tử của Ngài đều là những vị đại Bồ Tát tái lai, Giống như diễn tuồng, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chính, họ đóng những vai phụ, thảy đều là tới thị hiện, đến hát vở tuồng này biểu diễn cho chúng ta xem, giúp chúng ta giác ngộ. Các Ngài mới thật sự là giai cấp vô sản, Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời chẳng dựng một ngôi chùa miếu nào, vậy th́ Tăng đoàn ở nơi đâu? Ở ngoài đồng, trong rừng, dưới cội cây. Quư vị hăy suy nghĩ, tư tưởng của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vô cùng sống động, chúng ta nói là Ngài hết sức hiện đại hóa, chẳng câu thúc chút nào! Quư vị thấy quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, chính họ có hoa viên, có biệt thự, mời Ngài đến cúng dường, thỉnh Ngài tới giảng kinh, Ngài cũng đồng ư, cũng tiếp nhận. Nổi tiếng nhất là Trúc Lâm Tinh Xá (Kalandaka Venuvana), Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên (Jetavana Vihara), thời gian đức Phật trụ tại những nơi ấy cũng khá dài; nhưng sau khi giảng hết một bài kinh lớn, Ngài rời khỏi, vật trở về chủ cũ. Nói theo cách bây giờ, Ngài chỉ tiếp nhận quyền sử dụng, chẳng cần tới quyền sở hữu. Quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ nhân các vị, Ngài không cần sẽ giao lại. Lúc đức Phật nhập diệt là ở trong rừng, chẳng ở trong nhà! V́ vậy, chúng ta quan sát cặn kẽ, suy ngẫm ư nghĩa này, đúng là sắc thân ở trong thế gian này cũng chẳng nhiễm mảy trần, chẳng sở hữu một thứ ǵ, ba y một bát, ngày ăn một bữa Ngọ, ngủ dưới cội cây, đắc đại tự tại, thật sự an lạc.
Hiện thời, người ta gọi Phật giáo là tôn giáo, Thích Ca Mâu Ni Phật nghe như vậy cũng thở dài, oan uổng! Phật giáo chẳng phải là tôn giáo, Phật giáo và tôn giáo chẳng dính dáng ǵ với nhau, làm sao có thể nói Phật giáo là tôn giáo? Ngài suốt đời giáo học! Từ kinh điển, nếu chúng ta quan sát cẩn thận, liễu giải Phật, nói theo cách bây giờ, đức Phật là một nhà giáo dục văn hóa xă hội đa nguyên chánh cống. Suốt đời Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy [tấm gương của] một người có nghĩa vụ làm công tác giáo dục văn hóa xă hội đa nguyên. Đức Phật dạy học chẳng phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tôn giáo. Từ kinh điển, chúng ta thấy có nhiều người Bà La Môn giáo, hay thuộc các tôn giáo khác ở Ấn Độ, theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập. Dạy dỗ không phân biệt, Ngài chẳng cự tuyệt, cũng không buộc quư vị thay đổi, tín ngưỡng hay tôn giáo nào, Ngài thảy đều hoan nghênh. Chúng ta phải học tập điều này. Đức Phật dạy này nọ, cách dạy như thế nào? Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ, đấy là tổng cương lănh giáo học của Phật. Đầu tiên, dạy quư vị tŕ giới, tŕ giới là ǵ? Giữ quy củ, nghe lời, khiến cho cái tâm của quư vị định. Nói “định” là phiền năo, tập khí thảy đều buông xuống, tâm bèn định. Sau khi tâm định bèn khai trí huệ. Do vậy, tâm định rồi th́ tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Cái tâm phập phều, chao động sẽ sanh phiền năo, người Hoa gọi [cái tâm ấy] là “tâm phù khí táo” (bộp chộp, vội vàng), “tâm phù khí táo” sanh phiền năo, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. V́ vậy, tu hành bước đầu tiên là phải đạt được tâm thanh tịnh. Người đạt được cái tâm thanh tịnh, nói theo Phật pháp là đă đạt được học vị thứ nhất, tức A La Hán. A La Hán đoạn Kiến Tư phiền năo, tâm thanh tịnh, đấy là học vị đầu tiên. Sau đó, tiếp tục nỗ lực, phân biệt cũng buông xuống. Công phu của bậc A La Hán là buông chấp trước xuống. Chấp trước là Kiến Tư phiền năo. Kinh Đại Thừa thường gọi “phân biệt” là Trần Sa phiền năo, trần sa là tỷ dụ nhằm ví von “số nhiều”. Đoạn Trần Sa phiền năo là chẳng phân biệt, chẳng phân biệt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có tâm phân biệt. Hiểu rơ ràng cảnh giới trước mặt, đó là Huệ; chẳng phân biệt là Định. Định này cao hơn Định của A La Hán; v́ vậy, danh xưng của học vị này là Bồ Tát, cao hơn A La Hán. Tới cuối cùng, trong giai đoạn cuối cùng, bèn chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó là đoạn sạch vọng tưởng, đoạn vô thỉ vô minh. Vô thỉ vô minh là khởi tâm động niệm. Sau khi đoạn sạch, mười pháp giới chẳng c̣n. Đạt đến cảnh giới A La Hán, lục đạo chẳng c̣n, vượt thoát lục đạo; khi đạt đến cảnh giới Phật, mười pháp giới chẳng c̣n, lúc đó, Nhất Chân pháp giới hiện tiền, đó là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.
Chúng ta thấy trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu thế giới Cực Lạc và thế giới Hoa Tạng. Cư dân trong các thế giới ấy đúng là “trường sinh bất lăo”, thọ mạng là vô lượng thọ, con người chẳng có hiện tượng lăo hóa, hoàn toàn đúng là h́nh tướng trẻ trung, chẳng có tướng già nua. Hoa, cỏ, cây cối xanh tươi măi măi, chẳng giống như nơi này Xuân sanh, Hạ trưởng, chẳng có hiện tượng ấy, chẳng có tướng biến hóa ấy, mà là vĩnh hằng. Thật sự có thế giới ấy. Trong kinh điển, đức Phật đă giảng đạo lư đó, chúng ta hiểu rơ, minh bạch, có lư luận để có thể dựa vào. V́ sao người trong thế giới ấy chẳng lăo hóa? V́ họ chẳng có phân biệt, chấp trước. V́ sao người trong thế gian này bị lăo hóa? Có phân biệt, chấp trước. Hoa, cỏ, cây cối v́ sao Xuân sanh, Hạ trưởng? Chúng cũng có phân biệt, chấp trước, hoa, cỏ, cây cối có [phân biệt, chấp trước]; núi, sông, đại địa thành, trụ, hoại, không, v́ sao? Núi, sông, đại địa cũng có phân biệt, chấp trước, Ngũ Uẩn mà! Thí nghiệm trên nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă chứng tỏ rất rơ ràng, quư vị thấy nước có thể thấy, nghe, lại c̣n hiểu ư nghĩ con người. Chúng ta tán thán, ca ngợi nó, nó sẽ biểu hiện sự kết tinh vô cùng đẹp đẽ, đáp ứng chúng ta. Chúng ta chửi bới, chán ghét nó, nó phản ứng [bằng cách kết tinh] rất xấu xí. Nước có phân biệt, chấp trước. Hiện thời, khoa học c̣n tiến một bước nữa, phát hiện nước c̣n có kư ức. Có kư ức sẽ phiền lắm! Nếu quư vị xử
tệ đối với nó, nó sẽ trả thù quư vị. Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta phá hoại hoàn cảnh sanh thái thiên nhiên, thiên nhiên có kư ức, nó oán hận, sẽ trả thù chúng ta. V́ vậy, núi lửa bùng nổ, động đất, đó là thiên nhiên báo thù, chẳng phải là chuyện thần thoại. V́ vậy, đối với tin tức này, chúng tôi mong có CD/DVD cho mọi người xem, thấy nước có kư ức, nước là một đại biểu [của toàn bộ thiên nhiên]. Tất cả hiện tượng vật chất, nay đă được khoa học chứng tỏ, đúng như lời đức Phật đă nói, thảy đều có Ngũ Uẩn, đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thức là kư ức, Thọ là cảm nhận, Tưởng là phân biệt, Hành là chấp trước, Thức là vô thỉ vô minh, những vọng tưởng nó đều có hết. Động vật biểu hiện [Ngũ Uẩn] rất rơ rệt, khoáng vật biểu hiện chẳng rơ ràng, phải thông qua thí nghiệm khoa học để chứng tỏ. Ngay cả đối với núi, đá, bùn, đất, chúng ta cũng chớ nên đắc tội, huống chi cây, cối, hoa, cỏ, huống hồ hết thảy động vật! V́ vậy, khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, ngày càng chứng thực những điều đức Phật đă dạy trong kinh. Đây là chuyện tốt, chúng ta chẳng thể không tin!
V́ vậy, chớ nên chấp trước hết thảy các hiện tượng là có, mà cũng đừng chấp trước chúng là không! Có hay không đều chẳng thể được! Trong giảng đường, chúng tôi thường dùng điện ảnh để tỷ dụ, dùng TV làm tỷ dụ. Nay chúng ta học tập, có thể nói là đại đa số đồng học đều cùng nhau học tập qua Internet, hay truyền h́nh vệ tinh. Internet th́ quư vị có thể thấy cùng lúc; truyền h́nh vệ tinh phát sóng, đại khái phải sau một tháng, v́ vẫn c̣n phải chế tác [băng đĩa], in chữ phụ đề lên phim. Nói tới Thật Tướng của các pháp, quư vị hăy quan sát cẩn thận màn h́nh TV của chúng ta, chân tướng là ǵ? Chúng ta hăy sánh ví màn h́nh như tự tánh, Thật Tướng vô tướng, đúng là vô tướng! Quư vị chẳng thể nói nó thật sự chẳng có, vặn đúng đài, sắc tướng bèn hiện tiền, hiện tượng này chúng ta đều biết, bày ra trước mắt mỗi ngày. Sắc tướng hiện tiền, quư vị chẳng thể nói nó là có, v́ sao? Quư vị tắt TV đi, nó chẳng c̣n nữa! Đổi sang băng tần khác, sẽ đổi sang h́nh ảnh khác, đổi băng tần giống như mười pháp giới. Phật pháp nói chân và vọng, vọng là có thể biến. Sắc tướng trên màn h́nh có thể biến, sanh diệt trong từng sát-na, Di Lặc Bồ Tát nói một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Mỗi một niệm đều có sắc tướng, đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Lúc mê gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi giác ngộ, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng có, biến đổi, biến thành ǵ? Biến thành Chân, kiến văn giác tri, đấy là trí huệ và đức tướng trong tự tánh, nhưng nó chẳng hiện tiền, quả thật là có. Do vậy, quư vị chẳng thể nói nó là không!
Chúng ta dùng màn h́nh làm tỷ dụ, tắt máy đi, quư vị chẳng thể nói trong ấy chẳng có sắc tướng. Mở trúng băng tần, sắc tướng hiện tiền, quư vị chẳng thể nói nó là thật sự có, t́nh h́nh trong toàn thể vũ trụ rất giống như vậy! Nếu quư vị hiểu những đại đạo lư này, mỗi ngày mở TV, xem TV bằng cách nh́n này, xem lâu ngày sẽ khai ngộ, cùng một đạo lư! Trong quá khứ, chuyện này đúng là khó hiểu! Đối với các bậc tổ sư đại đức thời cổ đọc kinh Phật mà có thể khai ngộ, chúng ta bội phục năm vóc sát đất. Hiện tại, có những công cụ khoa học nhiều ngần ấy bày ra trước mặt chúng ta, những thứ tương tự ngày càng nhiều, nên dễ hiểu, nhưng các Ngài chẳng có những thứ ấy, làm thế nào để hiểu? Từ chỗ này, từ màn h́nh TV, quư vị bèn nhập pháp môn Bất Nhị, Có và Không bất nhị, Không và Hữu bất nhị. Màn h́nh là không, sắc tướng trong mỗi băng tần là có, Không và Hữu bất nhị. Tâm Kinh dạy: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”, quư vị hoàn toàn thấy được, chúng là một, chẳng hai. Đấy là triết học tối cao. Nếu nh́n từ duyên khởi, đấy là khoa học tối cao. Khởi nguyên của vũ trụ, khởi nguyên của vạn vật, khởi nguyên của sanh mạng, nhà Phật nói y báo và chánh báo trang nghiêm từ đâu mà có, quư vị đều hiểu rơ ràng, đều minh bạch, hoàn toàn trở về tự tánh. Trở về tự tánh là thành Phật, sự giáo học của Phật đă viên măn, [học
tṛ (chúng sanh được hóa độ) đă] tốt nghiệp rồi!
Chúng ta xem câu cuối cùng: “Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố vô tướng, tức cố vô bất tướng, bất đắc dĩ cưỡng danh Thật Tướng” (Nói tóm lại, ĺa hết thảy tướng tức là hết thảy pháp. Do ĺa nên vô tướng, do “tức” nên chẳng phải là không có tướng, bất đắc dĩ
cưỡng gọi là Thật Tướng). Nói Thật Tướng với quư vị th́ Thật Tướng có thật hay chăng? Nếu quư vị chấp trước là trật rồi, đây là danh từ thuật ngữ, là một thứ phương tiện dạy học nhằm làm cho quư vị ngộ nhập những điều trên đây, quư vị đừng nên chấp trước thật sự có Thật Tướng. Thật sự có Thật Tướng? T́m Thật Tướng chẳng được! V́ vậy, điều khẩn yếu là “chúng ta ĺa hết thảy tướng sẽ chính là hết thảy các pháp”. Chỉ cần quư vị rời khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thấy chân tướng. Hết thảy các pháp, giống như chúng ta coi TV, chỉ cần tách ĺa khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, quư vị sẽ thấy chân tướng, chẳng bị những h́nh ảnh trên TV nhiễu loạn, chẳng bị nó xoay chuyển. Quư vị bị h́nh ảnh xoay chuyển tức là tâm quư vị chẳng làm chủ được, có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đă bị nó xoay chuyển, bị nó quấy nhiễu. Nếu quư vị chẳng có khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, sẽ có thể chuyển nó, nó chẳng thể chuyển quư vị. “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (nếu có thể chuyển cảnh, sẽ giống với Như Lai), ta chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, v́ sao? Liễu giải rồi! Giống như kinh Đại Bát Nhă sáu trăm quyển, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Bát Nhă hai mươi hai năm, điều này chư vị đồng học đều biết. Khởi đầu, lúc vừa mới thành đạo, [đức Phật] bèn giảng Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm giảng trong Định; v́ vậy, Tiểu Thừa chẳng thừa nhận, không tin, đức Phật giảng trong Định mà! Tiểu Thừa chỉ thừa nhận đức Thế Tôn sau khi thành đạo độ năm vị tỳ-kheo tại Lộc Dă Uyển, đó là khởi đầu của sự nghiệp giáo học, họ thừa nhận chuyện này, chẳng thừa nhận Hoa Nghiêm. Đức Phật giảng A Hàm mười hai năm, Phương Đẳng tám năm, Bát Nhă hai mươi hai năm, Pháp Hoa tám năm, [tổng cộng] bốn mươi chín năm, thời gian giảng Bát Nhă dài nhất. Bát Nhă tổng kết lại là ǵ? Là bảo quư vị: “Hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được”, đó là chân tướng.
Làm thế nào để thấy chân tướng này? Đó là ĺa hết thảy tướng chính là hết thảy các pháp. Quư vị ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thấy được, sẽ thấy chân tướng của hết thảy các pháp. “Ly” và “tức” là một, chẳng hai. Quư vị thật sự ngộ điều này, thật sự thụ dụng. Do “ĺa” nên vô tướng, tâm trong sạch, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, chẳng có dấu vết pháp thế gian và xuất thế gian. Do “tức” nên chẳng phải là không có tướng. “Tức” và “ly” chẳng hai, chân và vọng đồng thời. Giống như màn h́nh TV chẳng phải là chân và vọng đồng thời ư? Chẳng phải là “ly” và “tức” chẳng hai ư? Màn h́nh là chân, sắc tướng là vọng, chân và vọng nhất thể, chân và vọng chẳng hai, phải liễu giải rơ ràng điều này. Chân ở đâu? Chân ở trong vọng, là lục đạo mười pháp giới, chân ở trong ấy, vọng ở đâu? Vọng ở trong chân; băng tần
và sắc tướng đều ở trên màn h́nh, màn h́nh là chân. [Phải nói như vậy] quư vị mới thật sự liễu giải chân tướng; v́ vậy, bất đắc dĩ nói “Thật Tướng”, quư vị chớ nên chấp trước danh từ Thật Tướng này. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta: Đọc kinh đừng chấp trước tướng văn tự, văn tự là công cụ, là phương pháp, chẳng phải là mục đích, mục đích là khai ngộ. Nếu quư vị chấp trước, sẽ chẳng khai ngộ. Chớ nên chấp tướng văn tự, nghe giảng th́ sao? Nghe giảng đừng nên chấp trước tướng ngôn thuyết, văn tự là phù hiệu của ngôn thuyết, chớ nên chấp trước. Điều thứ hai, Ngài dạy chúng ta đừng nên chấp trước tướng danh tự. Danh từ thuật ngữ là giả lập, chẳng thật. Những thứ ấy có thể hướng dẫn quư vị, đừng nên chấp trước! Giống như những tấm biển chỉ đường, chúng ta muốn đến Bắc Kinh, con đường này là xa lộ cao tốc (Express way), bên đường có tấm biển ghi “Bắc Kinh”. Tấm biển ấy chẳng phải là Bắc Kinh, nó là tướng danh tự. Quư vị chiếu theo phương hướng đó mà đi, chớ nên chấp trước tấm biển th́ mới có thể tới Bắc Kinh. Nếu quư vị chấp trước Bắc Kinh ở ngay nơi ấy, lầm rồi! Chớ nên chấp trước danh từ thuật ngữ! Điều thứ ba, chớ nên chấp trước tướng tâm duyên. Đọc kinh, ta nghĩ điều này có nghĩa là ǵ, vừa nghĩ bèn trật, chớ nên suy tưởng, v́ sao? Chẳng có ư nghĩa ǵ. Quư vị suy nghĩ [một ư nghĩa nào] th́ đấy là ư nghĩa của chính quư vị, chẳng thể là ư nghĩa của Phật. Chớ nên suy tưởng th́ quư vị mới có thể hiểu nghĩa chân thật. Nghĩa chân thật là ǵ? Thưa quư vị, là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác. Sau khi khôi phục, sau khi đạt được, không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Người ta chẳng hỏi quư vị th́ tâm địa trong sạch, chẳng [nhận thấy chính ḿnh] biết một thứ ǵ, đó là “Bát Nhă vô tri”. Người khác đến thỉnh giáo quư vị, lúc kẻ ấy hỏi quư vị, quư vị bèn ứng đối lưu loát, “không ǵ chẳng biết”. Không ǵ chẳng biết do đâu mà có? Từ vô tri mà có, vô tri là tự tánh, tự tánh khởi tác dụng, pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng ĺa khỏi tự tánh, v́ vậy, kiến tánh sẽ viên măn. Huệ Năng đại sư kiến tánh, Ngài có biết những điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng hay không? Biết toàn bộ, chẳng cần học, [những điều ấy] đều từ tự tánh lưu xuất. Hết thảy các kinh do mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đă nói, Huệ Năng đại sư có biết hay không? Đều biết, chẳng thiếu một điều ǵ! V́ vậy, kinh Phật được gọi là “nội học”, chẳng phải là hướng ngoại. Hướng ngoại sẽ cầu chẳng được. Cái cầu được do hướng ngoại là tri thức, chẳng phải là trí huệ; hướng nội sẽ cầu được trí huệ, chẳng phải là tri thức. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, tri thức giải quyết vấn đề mang tánh chất cục bộ, hạn chế; lại c̣n có hậu quả, trí huệ chẳng giống như vậy. Chúng ta chớ nên không hiểu rơ ràng điều này!
Chúng ta xem tiếp đoạn dưới: “Khả kiến Thật Tướng năi ngô nhân đương tiền nhất niệm tâm tánh chi cưỡng danh” (có thể thấy Thật Tướng chính là tên gọi miễn cưỡng của một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta), “cưỡng danh” là miễn cưỡng dùng danh từ này, chớ nên nghĩ là thật, chúng ta ngàn vạn phần chớ nên coi nó là thật. “Danh khả danh, phi thường danh” (cái tên có thể gọi ra th́ chẳng phải là cái tên thường hằng), Lăo Tử nói: “Đạo khả đạo, phi thường đạo” (cái đạo có thể diễn tả sẽ chẳng phải là cái đạo thường hằng). Thứ chân thật sẽ chẳng thể diễn tả được, chắc chắn là ĺa ngôn ngữ, văn tự. V́ vậy, đây là bất đắc dĩ, miễn cưỡng thành lập một danh tướng. “Ngô nhân nhất niệm tâm chi tánh, cưỡng danh vi tự tánh” (Một niệm tâm tánh của chúng ta cưỡng gọi là tự tánh). Tất cả những danh từ thuật ngữ này đều là bất đắc dĩ phải dùng nó, dùng nó để làm ǵ? Nhằm dạy
học thuận tiện. Hễ chấp trước sẽ trật, hễ chấp trước th́ sao? Kinh Phật biến thành Phật học, biến thành một thứ học thuật thế gian. Kinh Phật vốn là ǵ? Kinh Phật vốn là tự tánh, hễ chấp trước sẽ trật, lầm rồi, hễ phân biệt sẽ hỏng bét. Đây là chỗ khó khăn trong Phật học. Nếu quư vị thật sự hiểu th́ đây cũng là chỗ dễ dàng trong Phật học, thật sự quá dễ! Quư vị đến trường để học hành, trong đại học hiện thời ước chừng có mấy trăm khoa hệ, một khoa học bốn năm, mười khoa hệ là bốn mươi năm, một trăm khoa hệ là bốn trăm năm, quư vị học suốt một ngàn năm vẫn chưa tốt nghiệp, chẳng có cách nào học xong! Sau khi học xong th́ như thế nào? Vẫn chẳng thông một tí nào hết! Nếu quư vị thật sự hiểu khuôn phép Phật pháp này, sẽ dễ dàng, tốn mấy năm thật sự y giáo phụng hành, vọng tưởng, chấp trước thảy đều buông xuống, đều tách rời. Quư vị thấy: Buông chấp trước xuống, chứng A La Hán; buông phân biệt xuống, thành Bồ Tát; buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị thành Phật. Toàn bộ trí huệ và đức tướng trong tự tánh đều hiện ra, không điều ǵ chẳng thông, không ǵ chẳng thể!
Chư vị phải nhớ: Lúc Huệ Năng đại sư minh tâm kiến tánh, Ngài hai mươi bốn tuổi, chẳng có chuyện thế gian hay xuất thế gian nào Ngài không biết! Tuy Ngài không biết chữ, quư vị cầm một quyển sách đọc cho Ngài nghe, Ngài bèn giảng cho quư vị nghe trong sách ấy nói điều ǵ, giảng chẳng trật một tí nào! Trí huệ đă mở mang, từ tự tánh lưu xuất, chẳng do học được! V́ vậy, Phật pháp chẳng phải tôn giáo, nhưng bản thân Phật pháp xưng là Tông Giáo, [tức là] Tông Môn và Giáo Hạ [nói gộp chung lại], hoàn toàn chẳng liên can ǵ đến hàm ư trong [thuật ngữ] “tôn giáo” trong hiện thời. Tông Môn hay Giáo Hạ là do dùng phương pháp giáo học khác nhau. Thiền Tông chẳng dùng sách giáo khoa, hoàn toàn dùng phương pháp tham cứu, trong ấy, có rất nhiều phương pháp. Quư vị phải nhớ: Tham cứu là ĺa tâm ư thức, quyết định không dùng tâm ư thức, cũng có nghĩa là chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, huấn luyện điều này, khiến cho quư vị khôi phục cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh vốn sẵn có, khôi phục cái tâm thanh tịnh; sau đấy, tiến thêm một bước nữa là khôi phục tâm b́nh đẳng. Thanh tịnh, b́nh đẳng, sau đấy nhất định khai ngộ, khai ngộ là giác. Thanh tịnh là công phu và cảnh giới của A La Hán và Bích Chi Phật. Tâm b́nh đẳng là cảnh giới của Bồ Tát. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm sẽ khai ngộ, đại triệt, đại ngộ. Ngộ rồi khởi tu, sau khi giác ngộ, quay lại đọc kinh. Người ấy đă khai ngộ, tuyệt vời!
Chúng ta thấy vị cổ đại đức trong Phật môn là Long Thọ Bồ Tát của Ấn Độ được Trung Quốc rất tôn kính. Tám tông phái Đại Thừa Trung Quốc đều công nhận Long Thọ là Sơ Tổ, Long Thọ là Tổ Sư của tám tông, các tông đều tôn trọng Ngài. Trong truyện kư dường như có một đoạn như thế này: Thuở lăo nhân gia tại thế, Ngài học hết thảy các kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, nay chúng
ta gọi là Đại Tạng Kinh, Ngài học xong những kinh điển ấy, trong bao lâu? Ba tháng! Ba tháng học xong toàn bộ những ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm. Có thể như thế ư? Có thể chứ! Chúng tôi tin tưởng, v́ sao? Từ Đàn Kinh, chúng ta thấy được một đoạn tin tức. Đó là thiền sư Pháp Đạt thọ tŕ kinh Pháp Hoa, niệm được ba ngàn biến
kinh Pháp Hoa. Chúng tôi tin niệm ba ngàn biến phải mất mười năm! Kinh Pháp Hoa rất dài, mỗi ngày niệm một bộ, mất thời gian mười năm. Sư tới Tào Khê gặp Lục Tổ, khi lễ bái, đầu chẳng sát đất. Khi lễ ba lạy, tổ Huệ Năng thấy rất rơ ràng: Đầu chẳng chấm đất. Sau khi Sư bái xong, đứng dậy, Huệ Năng đại sư hỏi Sư: “Ông lễ bái đầu chẳng sát đất, nhất định có điều ǵ đáng để kiêu ngạo, ông hăy nói cho ta nghe”. Sư thưa: “Đă tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn biến”. Lục Tổ gật đầu: “Kinh Pháp Hoa giảng những ǵ?” Sư nói không được, thỉnh giáo ngược lại Lục Tổ! Lục Tổ nói: “Ta chưa nghe kinh này”. Đương nhiên Ngài chẳng thể xem, không biết chữ, chẳng xem sách. Tổ nói: “Nếu ông niệm ba ngàn lần th́ hăy đọc cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa tổng cộng hai mươi tám phẩm, Sư niệm tới phẩm thứ hai là phẩm Phương Tiện, niệm tới phẩm thứ hai, Huệ Năng đại sư nghe: “Được rồi! Chẳng cần niệm nữa, ta đă hiểu rơ toàn bộ”. Học theo cách giống như vậy, một bộ Đại Tạng Kinh có thể học trong ba tháng, chắc chắn học xong, không cần phải xem toàn vẹn. Coi mấy trang đă hiểu toàn bộ. Giảng đại ư kinh Pháp Hoa cho Sư nghe, Sư liền khai ngộ. Sau khi khai ngộ lại lễ bái, dập đầu sát đất, thiền sư Pháp Đạt là như vậy đấy! Từ một đoạn tin tức này, chúng ta liễu giải, vốn là “ngộ hậu khởi tu” nhanh chóng dường ấy, vừa nh́n liền hiểu rơ, vừa nghe liền hiểu rơ, không cần nghe hết!
V́ vậy, chúng ta biết lúc ấy Long Thọ Bồ Tát chứng đắc Sơ Địa, phải biết đấy là Biệt Giáo, c̣n trong Viên Giáo là Sơ Trụ, đă vượt thoát mười pháp giới, là Pháp Thân Bồ Tát. V́ vậy, gọi là “ngộ hậu khởi tu”, đó là phương pháp của Thiền Tông. Đây là pháp của người thượng thượng căn, chẳng dành cho người thường, người thường chẳng tu được! Lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy của tôi cảnh cáo tôi: Chẳng cho phép tôi đọc Đàn Kinh. Họ nói: “Chớ nên học theo Huệ Năng, chắc chắn là học không được, chúng ta chẳng phải là căn tánh ấy”. [Căn cơ] b́nh thường là căn tánh thượng trung hạ, thật sự là ngay cả thượng căn chúng ta vẫn chưa đạt được, mà là căn tánh trung hạ, vẫn phải thật thà làm theo từng bước, giống như đi học, lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, dần dần trèo lên cao. Ngài Huệ Năng một bước lên trời; [c̣n chúng ta bắt chước Ngài] lên không được sẽ tan thân, nát xương, xong luôn! V́ vậy, nhất định phải hiểu căn tánh của chính ḿnh. Căn tánh trung hạ, chỉ cần quư vị giùi mài kinh giáo, chẳng buông bỏ, hiểu phương pháp. Phương pháp ấy vẫn là một môn thâm nhập, trường thời huân tu, v́ sao? Tương ứng với Giới, Định, Huệ, chớ nên có tâm tham, thứ ǵ ta cũng đều phải học, quảng học đa văn, hỏng rồi! Đó là ǵ? Đó là pháp thế gian, quư vị phân tâm, vọng niệm nhiều quá! Những thứ trong Phật pháp nhằm tu tâm thanh tịnh, vọng niệm chẳng tương ứng với tâm thanh tịnh[4]. V́ vậy, chỉ học một môn. Một môn th́ quư vị chẳng có vọng tưởng, [tuân theo] quy củ, cung kính học một môn, quyết định tuân thủ giáo huấn của Mă Minh Bồ Tát trong Khởi Tín Luận. Ta học một bộ kinh này, chẳng chấp tướng văn tự, chẳng chấp tướng danh tự (danh từ thuật ngữ), chẳng chấp tướng tâm duyên. Mỗi ngày niệm như vậy, niệm từ đầu đến đuôi một bộ kinh này. Do vậy, kinh Đại Thừa rất có hiệu quả, như ngài Pháp Đạt cũng rất lỗi lạc. Quư vị thấy Ngài niệm một bộ kinh Pháp Hoa mười năm, có thể thấy tâm Ngài đă định. Nếu tâm Ngài chưa định, Huệ Năng đại sư giảng cho Ngài mấy câu, Ngài có thể khai ngộ được chăng? V́ sao nay chúng ta đọc Đàn Kinh chẳng khai ngộ, mà Ngài khai ngộ? Người ta có mười năm Pháp Hoa tam-muội làm cơ sở, nên vừa giảng bèn khai ngộ.
Do vậy, phương pháp học tập của Trung Quốc rất phi phàm, người ngoại quốc nằm mộng cũng nghĩ không ra, trí huệ do như vậy mà có! Tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo đều dùng phương pháp này. Phật pháp coi trọng khai ngộ, Nho và Đạo cũng coi trọng, đều nói tới Thiền Định. Trước đây, trong trường tư thục, thầy coi trọng điều ǵ nơi tṛ? Ngộ tánh, chớ nên chướng ngại ngộ tánh của tṛ. Tṛ học đồng thời rất nhiều thứ sẽ chẳng có ngộ tánh, cái mà tṛ học được là tri thức, chẳng khai ngộ. Phương pháp này thật sự chỉ có tại Cổ Ấn Độ và Trung Quốc, trong các quốc gia khác rất ít, chưa hề nghe nói tới. Một môn thâm nhập, trường thời huân tu, huân thành ǵ? Huân thành tam-muội. Nếu chúng ta mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ, kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ chẳng dài, người thật sự tu hành trong một ngày có thể đọc mười biến hay chín biến, mỗi lần là bốn mươi phút, đại khái mỗi ngày mất tám giờ. Niệm kinh là ǵ? Tu Định, chẳng khác ǵ tham Thiền của Thiền Tông. Họ dùng phương pháp tham cứu để tu Định, chúng ta dùng phương pháp đọc kinh để tu Định. Dùng phương pháp Niệm Phật cũng có thể tu Định. Nói chung, tám vạn bốn ngàn pháp môn là tám vạn bốn ngàn phương pháp tu Định khác biệt. Quư vị phải dựa theo quy củ này để làm, chớ nên tam tâm nhị ư, một môn thâm nhập, sau một thời gian lâu dài sẽ định, định tới một tŕnh độ nhất định, tự nhiên sẽ khai ngộ. Sau khi đă ngộ, lại học hết thảy kinh giáo rất dễ dàng, vừa xem liền hiểu rơ, chướng ngại ǵ cũng chẳng có, đó là ǵ? Trí huệ khai rồi! Giáo Hạ khai trí huệ, có tiểu ngộ, có đại ngộ, có đại triệt đại ngộ. Tích lũy tiểu ngộ biến thành đại ngộ, tích lũy đại ngộ biến thành đại triệt đại ngộ. Đó gọi là “tiệm tu”, [tức là] từng bước một nâng cao lên. Người căn tánh trung hạ có thể làm được. V́ vậy, thầy tôi dạy tôi đi theo con đường này, tôi cũng rất nghe lời; nhưng Đàn Kinh tôi vẫn đọc, tôi vẫn hết sức hoan hỷ; v́ trong hoàn cảnh này, cả đời tôi chẳng có đạo tràng, chẳng có chùa chiền. Học hội của chúng ta là do các cư sĩ tại Hương Cảng phát tâm tạo dựng, họ có đổng sự hội (board of directors) quản lư, đây cũng chẳng phải là chỗ của tôi. Cả đời này, ở đâu có duyên t́m tôi, tôi liền đến đó. Lúc đi, nói chung là tùy duyên, họ thích nghe kinh ǵ, đến bảo tôi phải giảng kinh ấy, gần như tôi đều đáp ứng. V́ vậy, cả đời này, giảng kinh luận cũng rất nhiều, nói chung là mấy chục bộ. Tôi cũng mong hoàn toàn giống như cổ nhân một môn thâm nhập, nhưng chẳng có duyên ấy. Nếu có phước báo rất lớn, quư vị mới có thể làm được. Chẳng có đại phước báo sẽ không được. Đến mọi nơi kết duyên, nói chung là nghe lệnh người khác, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức; nhưng pháp mà bản thân tôi học là Niệm Phật, niệm Phật chẳng gián đoạn.
Ở đây nói tới “nhất niệm tâm”, chúng ta hiểu rơ nhất niệm tâm. “Nhất niệm” ấy chính là vô thỉ vô minh, nó cũng là tự tánh. V́ vậy, theo Pháp Tướng Duy Thức, A Lại Da là chân vọng ḥa hợp, một nửa chân, một nửa vọng. Chúng ta dùng màn h́nh TV làm tỷ dụ, đó chính là hiện tượng này. Quư vị thấy màn h́nh là thật, hiện tượng trong ấy là vọng, chân vọng ḥa hợp. Vọng là A Lại Da, chân là khi chẳng có hết thảy các tướng, đó là tánh, là tự tánh. V́ vậy, nhất niệm tâm tánh, cưỡng gọi là tự tánh. Chân tánh chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Do chẳng phải là vật chất, ngũ căn của chúng ta duyên chẳng được; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chẳng duyên được nó. Nó chẳng phải là tinh thần; v́ vậy, ư thức của chúng ta chẳng duyên được nó. Miễn cưỡng gọi tên, đặt cho nó một tên gọi là Tự Tánh. Nó có rất nhiều [danh xưng], đức Phật gọi nó là Chân Như, Bổn Tánh, Pháp Tánh, rất nhiều danh từ, nhưng đều là cùng một chuyện. Đối với chuyện này, đức Phật nói ra rất nhiều danh từ; đấy cũng là phương tiện dạy học thiện xảo nhằm bảo quư vị chớ nên chấp trước, chỉ cần hiểu ư nghĩa này là được rồi, chớ nên nghiêm túc chấp trước. Danh tướng chẳng khẩn yếu, chẳng có quan hệ, kiến tánh mới thật sự là trọng yếu.
“Nhị Tổ mịch tâm bất khả đắc, tức thị ‘an tâm cánh’, đản bất khả ngôn kỳ vô” (Nhị Tổ t́m tâm chẳng thể được, chính là ‘tâm đă an rồi’, nhưng chẳng thể nói tâm là không). Trong câu chuyện này, Nhị Tổ là ngài Huệ Khả thuộc Thiền Tông. Đạt Ma Tổ Sư tới Trung Quốc truyền pháp môn Thiền này, ở Trung Quốc, Ngài được coi là Sơ Tổ; Huệ Khả đại sư là truyền nhân của Ngài, minh tâm kiến tánh trong hội của Ngài. Câu chuyện này các đồng tu học Phật đều biết. Đạt Ma Tổ Sư giống như bế quan tại chùa Thiếu Lâm, v́ sao? Chẳng gặp người có căn tánh như vậy để truyền pháp; v́ vậy, Ngài chỉ đành tự ḿnh bế quan nhập định, chờ người truyền pháp. Đợi rất nhiều năm, có một người xuất gia như thế hướng về Ngài cầu pháp, tâm địa rất kiền thành, rất cung kính thầy. V́ vậy, chư vị phải biết: Điều kiện trọng yếu nhất của truyền nhân là “tôn sư, trọng đạo”. Quư vị chẳng tôn trọng thầy, chẳng tôn trọng điều ḿnh sẽ học, Phật, Bồ Tát truyền cho quư vị, vô ích! Quư vị chẳng có cách nào tiếp nhận. Tuyệt đối chẳng phải là thầy mong quư vị phải tôn trọng Ngài, không phải! Vị thầy nào [mong được quư vị tôn trọng] sẽ chẳng phải là chân thiện tri thức, mà là kẻ c̣n ham danh. Chẳng phải vậy! [Tôn trọng thầy tức là] tâm quư vị chân thành cầu đạo.
Ấn Quang đại sư nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Tâm thành kính của quư vị được biểu hiện qua điều này, thầy thấy tâm quư vị mười phần thành kính, thầy sẽ chẳng bỏ quư vị. Một vị thầy cả đời chẳng có ǵ khác, mong muốn gặp được một học tṛ giỏi để có thể truyền đạo của ḿnh. Đó là như người Trung Quốc thường nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Bất hiếu có ba điều, không có người kế tục là điều bất hiếu lớn nhất). Hậu nhân của thầy là người truyền pháp. Điều này hết sức trọng yếu!
Huệ Khả mười phần thành kính, mùa Đông trời đổ tuyết, Sư ở ngoài cửa, Đạt Ma Tổ Sư nhập định bên trong, Sư ở ngoài cửa, [tức là] đứng ở ngoài cửa, tuyết phủ đến đầu gối, có thể thấy là trời đổ tuyết rất lâu, tuyết đóng dầy như thế, vẫn chẳng bỏ đi, một mực đứng ở đó. Đạt Ma Tổ Sư biết, nh́n Sư hỏi, h́nh như Sư quỳ gối ở nơi đó, Tổ hỏi: “Ông đến cầu điều ǵ?” Sư thưa: “Tâm con chẳng an, xin đại sư an tâm cho con”. Đạt Ma Tổ Sư nói: “Ông lấy cái tâm ra đây, ta sẽ an nó thay cho ông”. Nay chúng ta thấy rất nhiều tượng Đạt Ma giơ một tay ra, đó là ư nghĩa này! Quư vị lấy tâm ra, ta sẽ thay quư vị an nó. Huệ Khả t́m măi, t́m không được, tâm rốt cuộc ở đâu? Kinh Lăng Nghiêm bảy chỗ gạn tâm, thật sự chẳng t́m được! Huệ Khả bèn thưa: “T́m tâm trọn chẳng thể được”, nói lời ấy, con chẳng t́m được tâm ở chỗ nào cả! Đạt Ma Tổ Sư trả lời: “Ta đă an cái tâm của ông rồi!” Một câu nói này của Ngài đă đánh thức Huệ Khả, Ngài bèn khai ngộ. Chư vị phải hiểu: Tâm người ta đạt tới thanh tịnh; v́ vậy, sau khi được chỉ điểm liền b́nh đẳng. Tâm b́nh đẳng là Phật tâm, tâm Lục Độ là Bồ Tát tâm, tâm b́nh đẳng là Phật tâm, Ngài lập tức khai ngộ. V́ vậy, t́m tâm trọn chẳng thể được! Quư vị chẳng thể nói không có tâm. Nếu nói “t́m tâm chẳng thể được”, bèn hiểu “như vậy là chẳng có tâm”, trật mất rồi! Nếu ở chỗ này, quư vị đưa ra câu trả lời như thế này: “Chẳng phải là không có tâm ư?” Quư vị đă rơi vào hầm vô minh rồi, vĩnh viễn chẳng khai ngộ. Phật pháp vĩnh viễn là sống động, ở nơi đâu? Ngay chính lúc này, từ đầu đến cuối ngay trong một niệm ấy; nhưng một niệm ấy chẳng thể được, một niệm ấy là ǵ vậy? Trôi qua rất nhanh! Khi phàm phu chúng ta dấy lên một niệm, Di Lặc Bồ Tát đă giảng một [thô] niệm (một niệm mà chúng ta có thể nhận biết) có tới ba mươi hai ức trăm ngàn [tế]
niệm. Chính là một niệm ấy, tuy một niệm chẳng thể được, chẳng thể nói nó là không!
“Lục Tổ vân: ‘Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp’, diệc bất năng chấp vi hữu” (Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh vạn pháp”, vẫn chẳng thể chấp là có). Đối với “vũ trụ” như chúng ta nói hiện thời, nhà Phật gọi nó là “vạn pháp”, hay “pháp giới”. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới có thể sanh ra vạn pháp. Tuy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới bày ra trước mặt, quư vị chẳng thể nói nó là có. Thân thể hiện thời của chúng ta, đồng tu đạo hữu đông như thế cùng ngồi một chỗ, chẳng thể nói nó là có, đấy là cảnh giới. Người ta hỏi chúng ta có hay không? Chúng ta trả lời có, v́ sao? Quư vị có phân biệt, có chấp trước, khi tôi và quư vị ở chung một chỗ, tôi cũng có phân biệt, cũng có chấp trước, nên chúng ta mới có thể tṛ chuyện, trao đổi với nhau. Nếu tôi nói “chẳng có”, quư vị sẽ coi tôi là dị loại, rắc rối to! V́ vậy, chư Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, phải ḥa quang đồng trần cùng hết thảy chúng sanh. Đức Phật thuyết pháp, đă giảng rất rơ ràng, Ngài dựa vào ǵ? Nhị Đế! Đức Phật dựa vào Nhị Đế để giảng kinh, thuyết pháp cho hết thảy chúng sanh. Nhị Đế: Thứ nhất là Tục Đế, là sự hiểu biết và lư giải thông thường của chúng sanh. Thuận theo những ǵ chúng sanh hiểu rơ, nói với quư vị hiếu, đễ, trung, tín, quư vị hiểu ngay. Nói Ngũ Luân, Ngũ Thường, quư vị hiểu liền, đó là ǵ? Thế Tục Đế (Tục Đế). Tới khi cảnh giới của quư vị đă nâng lên cao hơn, bèn giảng Chân Đế. Đạt Ma và Nhị Tổ nói về lẽ chân, quả thật, chúng ta nghe chẳng hiểu, rành rành là có, sao quư vị nói chẳng có? Đúng là chẳng có, nhưng chúng ta hiểu lầm, tưởng là thật sự có. Phật cũng chẳng tranh căi với chúng ta, quư vị nói có th́ có, quư vị nói không th́ không! Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, giúp quư vị nâng cao lên từ từ. Đây là phương pháp áp dụng cho tuyệt đại đa số mọi người!
Quư vị thấy Đạt Ma Tổ Sư ở Trung Quốc nhiều năm như vậy, độ được một người là Huệ Khả; Huệ Khả cũng độ một người, suốt đời chỉ độ được một người là Tăng Xán, măi cho đến Huệ Năng, suốt thời Ngũ Đại[5] đều là đơn truyền. Ngũ Tổ Nhẫn ḥa thượng cũng là độ một người. Huệ Năng đại sư Lục Tổ độ bốn mươi ba người, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Ngài dạy bốn mươi ba người đều đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đúng là trước và sau Ngài chẳng hề có trường hợp nào giống như vậy! Sau thời Lục Tổ chẳng có t́nh h́nh này, thầy chỉ dạy được đôi ba người khai ngộ, dường như tối đa được năm người, nhiều hơn nữa chẳng có! Có thể thấy chuyện này khó khăn lắm! Trong thời đại hiện tại, có ai khai ngộ hay không? Xưa kia, tôi sang Hương Cảng giảng kinh vào năm một ngàn chín trăm bảy mươi bảy (1977), nơi tôi giảng kinh là Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán của lăo pháp sư Đàm Hư trên đường Giới Hạn (Boundary Street), lần đó giảng kinh Lăng Nghiêm. Tôi nghe băng thâu âm lời khai thị lăo pháp sư Đàm Hư trong Phật Thất, v́ khi tôi đến đó, lăo ḥa thượng đă văng sanh mấy năm rồi, ba bốn năm, chẳng được gặp mặt. Trong lời khai thị, Sư bảo, cả đời Ngài đă từng gặp người đắc Định, tức là đắc Thiền Định trong Thiền Tông, Ngài đă thấy, cũng từng nghe nói, nhưng khai ngộ th́ không chỉ chưa hề thấy, mà cũng chưa hề nghe nói tới. Nên biết lúc Đàm lăo pháp sư nói [lời ấy], Ngài đă chín mươi tuổi.
Gần đây nhất, đại khái là hai mươi năm trước, tôi quen biết lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Lúc lăo nhân gia c̣n sống, mỗi năm tôi sang Bắc Kinh tối thiểu hai lượt để gặp cụ. Hai người chúng tôi đều học bản kinh này, tức bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, không ai giảng bản này. Tôi ở hải ngoại giảng bản này, cụ ở trong nước giảng bản này, trong nước cũng chẳng có người thứ hai giảng. V́ vậy, hai người chúng tôi gặp nhau rất hợp ư. Cụ bảo tôi: Cụ học Thiền, cũng như học Mật, đều có thành tựu khá. Cụ bảo tôi: Trong thời đại hiện tiền này, căn tánh Thiền và Mật đều chẳng có. Ngay cả tham Thiền đắc định c̣n chẳng thấy; học Mật, tam mật tương ứng, tức thân thành Phật cũng chẳng có! Cụ nói từ nay về sau, có thể thành tựu trong Phật pháp chỉ có niệm Phật. Thầy của cụ là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư cũng từng học Thiền, cũng từng học Mật, lúc mất bèn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Hoàng lăo cư sĩ cũng giống như thế. Lúc cụ ngă bệnh, đă cho tôi biết, mỗi ngày niệm mười bốn vạn câu Phật hiệu, đúng là buông xuống vạn duyên, những điều đă học trong cuộc đời cũng đều buông xuống, một câu Phật hiệu đưa cụ đi văng sanh. Đây là đại thiện tri thức thị hiện, hiện thân thuyết pháp cho chúng ta biết pháp ǵ sẽ có thể thành tựu, do pháp này sẽ có thể thành tựu.
Nhất là trong hiện thời, xă hội động loạn, tai nạn liên tiếp xảy ra, người b́nh thường chẳng c̣n kiêng dè mà bàn nói tai nạn. Trước đây, trong các cuộc gặp gỡ quốc tế, chẳng hề bàn chuyện tai nạn. Năm nay, tôi ở Úc, trong cuộc phỏng vấn năm tôn giáo, hết thảy mọi người đều bàn vấn đề này. Vài hôm trước, đài truyền h́nh Phượng Hoàng cũng phỏng vấn tôi về đề tài này, có thể thấy hết thảy mọi người rất coi trọng [chuyện này]. Chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm chưa xong, đă giảng đến bốn ngàn giờ, nhưng cũng v́ xă hội hiện tại cần thiết, tạm ngưng kinh Hoa Nghiêm, giảng kinh Vô Lượng Thọ một lần nữa, phối hợp giữa quốc nội và Đài Loan, nơi khác tổ chức Tam Thời Hệ Niệm một trăm thất, đều đem công đức của những chuyện này hồi hướng cho Trung Quốc, cho nơi này, cho toàn bộ thế giới, mong rằng do công đức này, tai nạn có thể giảm nhẹ, chậm xảy ra. Muốn hoàn toàn hóa giải, sợ rằng sức chúng ta chưa làm được! V́ vậy, chúng ta đồng tâm hiệp lực làm chuyện này, tôi giảng bộ đại kinh này để phối hợp với họ. Giảng kinh này viên măn, tôi lại giảng tiếp kinh Hoa Nghiêm. Đây là nhân duyên giảng kinh lần này.
Chúng ta xem đoạn tiếp theo: “Cái ly tứ cú, tuyệt bách phi, phi tư lượng, phân biệt chi sở năng giải” (Ấy là v́ ĺa tứ cú, dứt bách phi, chẳng thể do suy lường, phân biệt mà ḥng hiểu được). “Tứ cú” là có, không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không, bốn câu này. Những điều này đều nói về tâm phàm phu của chúng ta, tâm phàm phu quả thật là tâm luân hồi; trong tâm luân hồi, phân biệt, chấp trước nghiêm trọng nhất. Nay chúng ta biết: Trong Thật Tướng của các pháp, Có và Không đều chẳng có. Có và Không là đối lập. “Cũng có, cũng không” và “chẳng phải có, chẳng phải không” đều là hư luận, Phật pháp gọi [những điều đó là] hư luận. Hư luận chẳng có ư nghĩa chân thật. Những ǵ gọi là “chẳng có nghĩa chân thật”? Trái nghịch chân tướng sự thật. Lời này là thật, tuyệt đối chẳng giả; nhưng lời như vậy người tu lâu có thể hiểu, kẻ mới học sẽ khá khó hiểu. Người nào có thể hoàn toàn tiếp nhận, chẳng hoài nghi? Phải là người thượng căn trong Phật pháp; nhưng căn tánh có thể nâng cao lên nhờ huân tu. Chúng ta là kẻ hạ căn, chẳng sao hết! Chỉ cần tuân thủ giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, [điều này] khiến cho chúng tôi nhớ đến một câu ngạn ngữ của Trung Quốc: “Bất thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền” (chẳng nghe lời người già, bị thua thiệt trước mắt), lăo nhân là ai? Chư Phật, Bồ Tát là lăo nhân, cổ thánh tiên hiền là lăo nhân. Tôi có lư do để tin văn hóa Trung Quốc chẳng phải chỉ là năm ngàn năm, văn hóa Cổ Ấn Độ truy ngược về thời đại Bà La Môn là hơn một vạn năm, Trung Quốc trọn chẳng thua kém họ. Chúng ta nói [văn hóa Trung Quốc có lịch sử] năm ngàn năm là ǵ? V́ thời đại thượng cổ chẳng có văn tự, chẳng có ghi chép, đều dựa vào truyền khẩu, từ đời này truyền sang đời kia; Ấn Độ vẫn là như vậy, v́ họ không coi trọng lịch sử, c̣n người Trung Quốc coi trọng ghi chép lịch sử. Do đó, Khổng phu tử nói bản thân lăo nhân gia “thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ”. Tôi cảm thấy hai câu ấy của Luận Ngữ vô cùng quan trọng, đó là ǵ? Tu học thành tựu nhờ vào đâu? Thái độ tu học. Câu này nói rơ cả đời Khổng Tử chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, chẳng có ǵ lỗi lạc, những ǵ Ngài học, tu, dạy, truyền lại, hết thảy đều là của cổ thánh tiên hiền. Trong Luận Ngữ có rất nhiều câu tôi tin là từ cả ngàn vạn năm trước truyền lại, lăo nhân gia thâu thập, hệ thống hóa, chỉnh lư, dùng văn tự ghi lại lời cổ thánh tiên hiền để lưu truyền hậu thế. V́ vậy, nói: Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư đă “tập đại thành”. Công đức này vô lượng, vô biên, chẳng có văn tự của Ngài ghi chép, những thứ được truyền lại cũng rất ít, đây là cống hiến lớn nhất của Ngài đối với người đời sau.
Chúng ta nên có thái độ này, thái độ này của Phu Tử là tâm thanh tịnh, chẳng tự tư tự lợi, chẳng v́ tiếng tăm, lợi dưỡng. Ngài yêu thích những giáo huấn của cổ nhân, nói cách khác, Ngài ưa chuộng thánh nhân, Ngài là thánh nhân. Nếu Ngài chẳng phải là thánh nhân, làm sao có thể ưa thích thánh nhân? Giống như năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham phỏng tỳ-kheo Cát Tường Vân. Tỳ-kheo Cát Tường Vân là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chính Ngài đă chứng đắc. Nếu Ngài chẳng phải là Sơ Trụ, sẽ chẳng thấy Sơ Trụ; chẳng phải là Sơ Địa sẽ chẳng thấy Sơ Địa. Khổng Tử có thể thấy, hiểu nghĩa chân thật trong những giáo huấn của thánh nhân, Ngài đă đạt tới cảnh giới ấy. Đă đạt th́ dùng những giáo huấn của người khác là được rồi, cần ǵ phải dùng của chính ḿnh! Nêu gương tốt cho người đời sau; đó là chính xác, chúng ta phải nên học theo điều này! V́ vậy, tôi giảng bộ kinh này, lần này là lần thứ mười một, phương pháp sử dụng trong lần thứ mười một khác hẳn, giảng bản chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ; đây là “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”, chẳng có ǵ của chính ḿnh, cớ ǵ cứ phải của chính ḿnh! Hoàng lăo cư sĩ chú giải, tôi đồng ư, chẳng phải là giống hệt như của chính ḿnh ư? Cớ ǵ cứ phải nêu ra những thứ của chính ḿnh? Nêu ra những thứ hay đẹp của người khác, mong muốn hết thảy mọi người học tôn trọng cổ thánh tiên hiền, sẽ có đại lợi ích! Chẳng tạo tiếng tăm, lợi dưỡng cho chính ḿnh, chẳng làm chuyện tự tư tự lợi, khiến cho tâm của chính ḿnh được khôi phục sự thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần!
Ĺa tứ cú, tuyệt bách phi, được tổng kết ngay sau đó, “phi tư lượng phân biệt chi sở năng giải” (chẳng phải là suy lường, phân biệt mà ḥng hiểu được). Chúng ta dùng tâm ư thức, tâm ư thức chính là nghiên cứu trong hiện thời, nghiên cứu là ǵ? Dùng thức thứ sáu (ư thức) để phân biệt, dùng thức thứ bảy để chấp trước. Có thể nghiên cứu những thứ chân thật hay chăng? Chẳng thể nào! Đấy là chỗ khác biệt giữa khoa học và truyền thống Trung Quốc. Truyền thống Trung Quốc có thể kiến tánh, có thể khôi phục trí huệ trong tự tánh, khoa học không làm được, v́ sao không làm được? Khoa học dùng tâm ư thức. Dùng tâm ư thức sẽ đạt được tri thức, chẳng phải là trí huệ, hai chuyện [khác nhau]. Cổ Ấn Độ và Trung Quốc cổ xưa coi trọng trí huệ, tri thức là hạng nh́. Hai mươi lăm bộ sử là tri thức, mười ba kinh[6] là trí huệ. Tri thức có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nhưng quyết sách, quyết đoán nhất định phải là trí huệ. V́ vậy, Trung Quốc mấy ngàn năm ổn định là có đạo lư. Những thứ của tổ tiên thật sự tốt đẹp, nếu chúng ta coi thường sẽ là đại bất hiếu, [tổ tiên] lưu lại những thứ quá tốt như vậy, sao lại hời hợt coi thường?
Tiếp theo là “linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”. Đă hết thời gian rồi, ngày hôm nay chúng ta học tới đây, ngày mai chúng ta sẽ học tập tiếp câu này. Nghĩa lư trong đoạn này rất sâu, chúng ta phải chú tâm cùng nhau học tập trong lần tới. À! Ngày hôm nay học tới đây!
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 10 hết
[1] Tứ Khố Toàn
Thư được chia thành bốn phần: Kinh, Sử,
Tử, Tập. Tập chính là phần thu thập tất cả
các trước tác văn chương, thi phú.
[2]
Phương ngoại
là danh xưng chỉ
người xuất
gia. Bạn
phương ngoại
tức là tăng sĩ
kết giao với người
trong thế
tục.
[3]
Hoàng Đế
c̣n gọi
là Hiên Viên Hoàng Đế, được coi là
thủy tổ
của người
Hán. Theo huyền sử,
ông trị
v́ từ
năm 2697 đến năm
2598 trước
Công Nguyên.
Theo Hán Thư, Hoàng Đế vốn
là họ
Cơ, là con của Thiếu
Điển, do sống tại
g̣ Hiên Viên nên lấy Hiên Viên làm tên. Về
sau, tên ấy được coi là họ
(với danh xưng Hiên Viên Thị). Sách Sử Kư lại nói ông vốn họ Công Tôn, nhưng cũng công nhận do ông sống tại g̣ Hiên Viên nên lấy Hiên Viên làm tên. Do đặt tên nước là Hữu Hùng, nên c̣n gọi là Hữu Hùng Thị. Hoàng Đế liên kết Viêm Đế đánh bại Xi Vưu (thủ lănh bộ tộc Cửu Lệ) tại cánh đồng Trác Lộc. Về sau, do mâu thuẫn quyền lợi, Viêm Đế và Hoàng Đế đánh nhau. Viêm Đế thua trận Bản Tuyền, Hoàng Đế trở thành Cộng Chủ (thủ lănh liên minh các bộ lạc thời ấy) của cả Trung Nguyên. Các phát minh trong thời kỳ này đều được gán cho Hoàng Đế như làm nhà cửa, đóng ghe thuyền, chế kim chỉ nam, làm lịch, y học v.v... Tương truyền, một đại thần của vua là Thương Hiệt đă chế ra chữ Hán. Vợ Hoàng Đế là Luy Tổ được coi là người đầu tiên t́m ra cách kéo kén, dạy phụ nữ ươm tơ, dệt lụa.
[4]
Ư nói các pháp môn trong Phật pháp đều nhằm tu thanh tịnh, nhưng nếu hành giả tham cầu học càng nhiều pháp môn càng tốt, tưởng đó là quảng học đa văn, thật ra là vọng niệm, vọng niệm chẳng tương ứng với tâm thanh tịnh!
[5]
Ngũ Đại
là giai đoạn lịch
sử từ
năm 907 đến năm 979, trải qua năm triều đại chính là Hậu Lương (907-923, do Châu Hoảng tức Châu Ôn sáng lập), Hậu Đường (923-937, do Lư Tồn Úc sáng lập), Hậu Tấn (936-947, do Thạch Kính Đường sáng lập), Hậu Hán (947-951, do Lưu Trí Viễn sáng lập), và Hậu Châu (951-960, do Quách Oai sáng lập). Trong giai đoạn này, ngoài năm vương quốc chính nói trên, có tất cả mười vương quốc được sáng lập và diệt vong trong một thời gian ngắn nên sử thường gọi chung là Ngũ Đại Thập Quốc. Mười nước ấy là Ngô (904-937, do Dương Hành Mật sáng lập), Nam Đường (937-975, do Lư Biện sáng lập), Ngô Việt (907-978, do Tiền Liêu sáng lập), Sở (897-951, do Mă Ân sáng lập), Mân (909-945, do Vương Thẩm Tri), Nam Hán (917-971, do Lưu Nghiễm sáng lập), Tiền Thục (907-925, do Vương Kiến sáng lập), Hậu Thục (934-965, do Mạnh Tri Tường sáng lập), Nam B́nh (c̣n gọi là Kinh Nam hay Bắc Sở, 924-963, do Cao Quư Hưng sáng lập) và Bắc Hán (951-979, do Lưu Mân sáng lập).
[6]
Thoạt đầu,
Trung Hoa chỉ coi hai mươi bốn bộ sử được coi là sách lịch sử chính thống, đến năm 1921, tổng thống Từ Thế Xương hạ lệnh đưa thêm Tân Nguyên Sử (do Kha Thiệu Mẫn biên soạn) vào danh sách ấy nên mới có hai mươi lăm bộ sử. Về sau, ngoại trừ tại Đài Loan vẫn chấp nhận quy định này, các nơi khác thay thế Tân Nguyên Sử bằng Thanh Sử Cảo (do
Triệu Nhĩ Tốn chủ biên). Hai mươi bốn bộ sử truyền thống là Sử Kư (do Tư Mă Thiên biên soạn dưới thời Đông Hán), Hán Thư (do Ban Cố biên soạn), Hậu Hán Thư (do Phạm Việp biên soạn), Tam Quốc Chí (do Trần Thọ biên soạn), Tấn Thư (do Pḥng Huyền Linh chủ biên), Tống Thư (do Trầm Ước biên soạn), Nam Tề Thư (do Tiêu Tử Hiển biên soạn), Lương Thư (do Diêu Tư Liêm biên soạn), Trần Thư (do Diêu Tư Liêm soạn), Ngụy Thư (do Ngụy Thâu soạn), Bắc Tề Thư (do Lư Bách Dược soạn), Châu Thư (do Lệnh Hồ Đức Phân chủ biên), Tùy Thư (do Ngụy Trưng chủ biên), Nam Sử (Lư Diên Thọ biên soạn), Bắc Sử (Lư Diên Thọ biên soạn), Cựu Đường Thư (do Lưu Hú chủ biên), Tân Đường Thư (do Âu Dương Tu biên soạn), Cựu Ngũ Đại Sử (Tiết Cư Chánh chủ biên), Tân Ngũ Đại Sử (Âu Dương Tu biên soạn), Tống Sử, Liêu Sử, Kim Sử (ba bộ này đều do Thoát Thoát chủ biên), Nguyên Sử (do Tống Liêm biên soạn), và Minh Sử (do Trương Đ́nh Ngọc biên soạn).
Thập Tam Kinh là mười ba bộ kinh điển chủ yếu của Nho gia mà các sĩ tử Trung Hoa kể từ đời Tống bắt buộc phải học nếu muốn đỗ đạt, gồm kinh Thi, kinh Thư, Lễ Kư, Châu Dịch, Tả Truyện (Tả Thị Xuân Thu là bộ biên niên sử nhằm chú giải kinh Xuân Thu do Tả Khâu Minh biên soạn), Công Dương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Công Dương Cao người nước Tề biên soạn), Cốc Lương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Cốc Lương Tử biên soạn), Châu Lễ (tương truyền do Châu Công biên soạn, viết về cách tổ chức quan chế đời Châu), Nghi Lễ (ghi chép các thứ nghi lễ đời Châu), Luận Ngữ (ghi chép lời dạy của Khổng Tử), Hiếu Kinh (ghi chép lời Khổng Tử dạy Tăng Sâm về đạo hiếu), Nhĩ Nhă (bộ từ điển đầu tiên của Trung Hoa, không rơ tác giả) và Mạnh Tử (sách ghi lại tư tưởng, quan điểm của Mạnh Tử, thường được tin là do chính Mạnh Tử biên soạn, và do các học tṛ của ông như Vạn Chương, Công Tôn Sửu v.v... chỉnh lư).